Thứ Ba, 20 tháng 12, 2011

Có cần tôn vinh các hiệp sĩ không?

Khi xã hội cần đến các hiệp sĩ, nghĩa là có một khoảng trống quyền lực và đạo đức cần được phủ lấp. Nhưng với chế độ pháp quyền, thật nguy hiểm nếu các "hiệp sĩ" trở thành một phần của thể chế, hay sự trợ giúp cho thể chế.

"Hiệp sĩ" để làm gì?

Khái niệm hiệp sĩ trong văn minh châu Âu thời Trung cổ dùng để chỉ các chiến binh tự do bán chuyên nghiệp. Vai trò này mất dần khi các vương quốc phong kiến xây dựng quân đội chuyên nghiệp, và hiệp sĩ chuyển sang phục vụ cho các lãnh chúa phong kiến có tổ chức kém quy củ hơn. Trong văn hóa Anh hiện đại, Hiệp sĩ trở thành một tước hiệu thấp nhất được Hoàng gia Anh dành cho giới quý tộc.

"Hiệp sĩ" trong các xã hội Á Đông thường được hiểu như các hiệp sĩ giang hồ. Nó gắn với việc hành động chuộng nghĩa, giúp kẻ yếu, trị cường quyền một cách vô vụ lợi. Tất nhiên, cường quyền cần đến các hiệp sĩ ra tay, nghĩa là cường quyền đó thường là quan lại hay được quan lại dung túng, hoặc quan lại quá yếu kém nên cường quyền mới bất trị trước nhà nước. Hệ quả kéo theo là các hiệp sĩ giang hồ phải sử dụng bạo lực và hành động bí mật, cũng tức là hành xử ngoài vòng pháp luật.

Trong thời trị, không ai ca ngợi các hiệp sĩ, vì đơn giản là xã hội không cần đến họ. Hiệp sĩ chỉ cần trong thời loạn, khi hiệu lực cai trị của nhà nước bị vô hiệu, hoặc giả, khi nhà nước không đồng nhất lợi ích của nó với xã hội. Trong tình huống sau, hiệp sĩ có thể dẫn dắt cả xã hội đến hành động phản kháng có tổ chức: một phong trào nổi dậy.

Trong chế độ pháp quyền, không có vai trò nào dành cho các hiệp sĩ. Bảo vệ đất nước đã có quân đội; bảo vệ an ninh xã hội đã có công an, cảnh sát; và bảo vệ lẽ phải đã có tòa án. Đó là những cơ cấu được tổ chức và vận hành có tính chuyên nghiệp cao, được huấn luyện và trang bị chu đáo nhất có thể, được trả lương để chuyên tâm làm nhiệm vụ, và được ban cho tính chính danh khi hành xử.

Và "hiệp sĩ săn bắt cướp"

Trước hết, phải ca ngợi họ là những con người dũng cảm, dám xả thân vì người khác. Điều đó đặc biệt đáng trân trọng trong một xã hội mà sự ích kỷ và vô cảm trở nên phổ biến. Nhưng tổ chức họ lại và tôn vinh họ một cách chính thức lại là một điều nguy hiểm đối với việc xây dựng xã hội pháp quyền.

Thứ nhất, nó nguy hiểm với chính các hiệp sĩ. Mọi kẻ cướp đều có trang bị, và có phương án chống trả khi bị truy đuổi hay vây bắt. Vì vậy, việc săn bắt bọn cướp - một phần của nhiệm vụ giữ an ninh cho xã hội - phải được giao cho những con người chuyên nghiệp, được trang bị và huấn luyện bài bản: những chiến sĩ công an. Công việc đầy nguy hiểm đó nếu được thực hiện bởi những con người nghiệp dư hay bán chuyên là sự đánh đu với tính mạng của chính họ để đổi lại việc bảo vệ tài sản kịp thời cho người khác. Không tài sản nào cao quý hơn sinh mạng con người. Thực tế, đã có hiệp sĩ săn bắt cướp ngã xuống, đã có nhiều hiệp sĩ đổ máu, và có cả hiệp sĩ bị bọn cướp quay lại truy sát. Lúc đó, ai bảo vệ tính mạng kịp thời cho các hiệp sĩ?

Thứ hai, nó nguy hiểm với việc phân công trách nhiệm xã hội. Cổ vũ cho các hiệp sĩ săn bắt cướp là chúng ta đã thừa nhận cơ quan công an không có khả năng thực hiện đầy đủ vai trò giữ an ninh cho xã hội nữa. Thay vì đòi hỏi cơ quan chuyên nghiệp đó phải chấn chỉnh để làm tốt hơn nhiệm vụ của mình, chúng ta đi cổ vũ gây dựng một dạng "tiền thể chế" nghiệp dư để làm việc đó.

Thứ ba, những lệch lạc tiềm ẩn khi "hành hiệp". Những "hiệp sĩ" vốn hành động dựa trên nghĩa khí. Nhưng nghĩa khí của những con người có nhận thức khác nhau sẽ có quan niệm khác nhau về lẽ phải, và không loại trừ họ nhận thức sai về lẽ phải, cũng như nhận định sai về tình huống khi xảy ra sự cố. Tất nhiên, nhận thức sai và nhận định tình huống sai sẽ dẫn đến hành động sai, và hành động sai thật nguy hiểm khi nó gắn với hình thức bạo lực (bắt cướp không thể thiếu hành vi bạo lực). Và các hiệp sĩ cũng là con người, không thể tránh khỏi nguy cơ ngộ nhận, lạm dụng, hoặc suy thoái đạo đức vào một lúc nào đó. Cách đây chưa đầy một tháng, em trai một hiệp sĩ săn bắt cướp nổi tiếng ở Bình Dương (từng đi cùng hỗ trợ anh trai bắt cướp) lại trở thành kẻ cướp.

Làm gì với các "hiệp sĩ"?

Điều rõ ràng là một xã hội pháp quyền phải cai trị bằng pháp luật, không phải bằng nghĩa khí. Và những nhiệm vụ chủ chốt - như nhiệm vụ giữ gìn an ninh - phải được giao cho cơ quan chuyên nghiệp, chứ không phải nghiệp dư.

Nếu cơ quan chuyên nghiệp chưa hoàn thành vai trò đó, xã hội cần đòi hỏi họ phải làm tốt hơn, bằng việc tuyển dụng những con người có trách nhiệm tốt hơn nữa, trang bị và huấn luyện tốt hơn nữa, giám sát thực hiện tốt hơn nữa. Nếu những hiệp sĩ là những con người can đảm, có mưu trí, và có những kỹ năng nhất định để bắt cướp, ngành công an có thể tuyển dụng họ, trang bị và đào tạo họ chuyên nghiệp hơn nữa, để họ làm tốt hơn công việc ấy trong vai trò chính thức.

Nếu chúng ta cho rằng bao nhiêu công an cũng không đủ, mà cần có sự trợ giúp của dân chúng, thì sự trợ giúp đó cần phải có giới hạn để bảo đảm an toàn cho người dân. Đó có thể là việc thông tin kịp thời cho cơ quan công an, là sự dũng cảm tố cáo tội phạm, là việc hỗ trợ bằng các phương tiện (phương tiện giao thông chẳng hạn) để ngăn cản tội phạm chạy trốn. Hãy cổ vũ toàn dân làm việc đó, vì an ninh của chính họ và của cộng đồng, chứ đừng đẩy họ ra đương đầu trực tiếp với tội phạm thay cho cơ quan công an.

An Biên (Vietnamnet)
(http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-12-16-ton-vinh-hiep-si-phan-gia-tri-cua-xa-hoi-phap-quyen)

-------------------------------------

Tôn vinh hiệp sĩ có gì sai?

Do đó, chúng ta tôn vinh những hiệp sĩ "bắt cướp" trên báo chí là rât tốt. Và chắc chắn xã hội sẽ có cách thức của riêng mình để tưởng thưởng xứng đáng cho những hành động nghĩa hiệp của họ.

Đọc bài Tôn vinh hiệp sĩ: phản giá trị của xã hội pháp quyền (TuanVietNam, 18/12), tôi có cảm nhận hình như tác giả An Biên vẫn chưa thấu hiểu đến tận cùng về vai trò của người "hiệp sĩ" trong lịch sử. Và có lẽ vì thế, cho nên tác giả mới cho rằng: "Trong thời trị, không ai ca ngợi các hiệp sĩ, vì đơn giản là xã hội không cần đến họ. Hiệp sĩ chỉ cần trong thời loạn".

Cách nghĩ của tác giả, theo tôi là chưa thật hợp tình và cũng thật chưa... hợp lý đối với cái nhìn đa chiều của dư luận xã hội.

Người "hiệp sĩ" thời nào cũng có!

Trong bài viết của mình, tác giả An Biên đã đưa ra khái niệm hiệp sĩ trong văn minh châu Âu thời Trung cổ. Và theo tôi, đó vẫn chưa thực sự là một cách nhìn nhận thấu đáo.

Vì nếu là đã thấu đáo, thì tôi chỉ tôi xin hỏi tác giả một câu. Đó là: Robin Hood, chàng cung thủ được dân gian châu Âu phong danh hiệu "hiệp sĩ" nhằm vinh danh cho công lao chỉ huy quần chúng chống lại sự hà khắc của vua Anh sẽ được xếp vào loại hiệp sĩ gì?

Vì chắc chắn vua Anh sẽ không bao giờ phong tước cho kẻ đã dám chống lại mình. Nếu theo cách hiểu của tác giả An Biên, hiệp sĩ là những người phục vụ cho các lãnh chúa và được vua ban tước.

Thật ra, sự "tôn vinh" hay "ban" tước hiệp sĩ cho một ai đó thông qua hệ thống Nhà nước đều chỉ là những sự hư danh hão huyền. Mà ngược lại, những người có nghĩa khí và cam đảm đấu tranh với cái Ác, mới chính là những hiệp sĩ đích thực và chính hiệu.

Điều này cũng chính là sự ước mơ ngàn đời của những người dân thấp cổ bé họng trong xã hội. Và rằng, họ luôn mơ ước đến cuối cùng, cái Thiện sẽ thắng cái Ác và cái Chính nhất định sẽ thắng cái Tà.

Do đó, khi cái Ác bị trừng trị, dù chỉ thông qua Thạch Sanh trong truyện cổ tích, Thần Điêu Đại Hiệp trong truyện kiếm hiệp hay Đông Ki Sốt đơn độc chống cối xay gió, thì dân tâm, dân tình cũng hả lòng hả dạ.

Suy nghĩ dân gian thông thường và dễ hiểu là thế. Nhưng suy nghĩ "bác học" như Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô Đại Cáo" cũng không gì dễ hiểu bằng:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
...
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có

Vậy là, những hiệp sĩ (hay các hào kiệt) vẫn cứ hiện tồn như một nhu cầu của nhân dân đối với xã hội. Thậm chí, có cả câu nói "tếu" của dân gian đại ý như sau: "Thời nào cũng có anh hùng, ở đâu chẳng có thằng khùng thằng điên".

Vì theo lối suy nghĩ đơn giản đó nên dù cho có "Quân điếu phạt" (là quân đội, công an, cảnh sát, tòa án như tác giả An Biên đã nêu lên trong bài viết của mình) để bảo vệ đất nước, bảo vệ an ninh xã hội và bảo vệ lẽ phải thì xã hội vẫn cần lắm những "việc nhân nghĩa" của những con người dám xả thân vì Đất nước và cộng đồng.

Và trên thực tế, sau những cống hiến của mình, những anh hùng "bằng xương bằng thịt" như Robin Hood (Anh),  Jeanne d'Arc (Pháp), Trần Hưng Đạo (Việt Nam)... vẫn được nhân dân ghi nhớ, tôn kính, sùng bái dù cho đến nay bao tấm bia đá đã hao mòn và đổ vỡ.

Đâu là giới hạn cho những hành động nghĩa khí ?

Trong những tiểu thuyết võ hiệp của mình, tác giả Kim Dung luôn để các nghĩa hiệp ra tay cứu giúp các nhân vật thân cô thế cô bị những kẻ cường hào ác bá hà hiếp, truy sát.

Và lối hành xử của các nghĩa hiệp luôn tỏ ra rất kịp thời và hiệu quả. Họ thường dùng võ công của mình để bảo toàn tính mạng, tài sản, vợ con cho những người bị hại.

Và chính vì vậy, dù trong cuộc sống có những nỗi âu lo sợ hãi thì nhân dân vẫn tin vào sự công bằng trong cuộc sống. Rằng, "ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác" và "ác giả ác báo".

Đó chính là biểu hiện tích cực của lẽ phải khi các "hiệp sĩ" vẫn tồn tại trong xã hội. Vì khi đó, người dân sẽ tin vào chính nghĩa. Còn những phường lang sói thì phải chùn tay khi gieo ác.

Chính vì vậy đến thế kỷ XIX cụ đồ Chiểu vẫn cứ cho Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga theo lối "giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha":

Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ!"
"Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân."

Tuy nhiên, như tác giả An Biên đã chỉ ra. Trong xã hội pháp quyền thì các cơ quan hành pháp của Nhà nước mới là các chế tài "chính danh" trong việc bảo vệ nhân dân.

Vì thế, các nghĩa hiệp không thể sử dụng mãi "Luật Rừng" (sức mạnh) đối với cái Ác. Và họ cũng không thể cứ đơn dộc hành xử theo lối hành hiệp trượng nghĩa là có thể cứu giúp được những người gặp nạn.

Như Nam Hiệp Triển Chiêu, một nghĩa hiệp nổi tiếng thời Nam Tống chẳng hạn. Lúc đầu "hiệp sĩ" này chỉ thích dùng nghĩa khí để hành xử. Nhưng khi nhận ra sự chí công vô tư của Bao Thanh Thiên thì Nam Hiệp đã đồng ý quy thuận Triều Đình.

Và sau sự "quy thuận" này, Triển Chiêu đã giúp Phủ Khai Phong phá rất nhiều vụ án oan sai khuất tất.

Do đó, người "hiệp sĩ" không những không phản lại giá trị pháp quyền của xã hội mà như một "nguồn sữa", nó sẽ mãi hiện tồn để duy trì mơ ước chính đáng của nhân dân về sự thắng lợi cuối cùng của cái Thiện đối với cái Ác.

Khi an ninh là sự nghiệp của toàn dân

Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước đã chỉ ra: Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân.
Bởi thế, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ Quốc luôn được Đảng và Nhà nước chú trọng và đẩy mạnh trong mọi khía cạnh của đời sống.

Trong thực tế, ngoài những lực lượng hành pháp như quân đội, công an, tòa án thì những đội dân phòng tuần tra hằng đêm, tuy không được dư luận ca ngợi như những dũng sĩ "bắt cướp" trong thời gian qua nhưng họ lại là những "anh hùng vô danh" bảo vệ sự bình yên cho nhân dân trên từng ngõ hẻm, khu phố, làng quê của Đất nước.

Và khi có chiến tranh, theo quy định thì lực lượng này cũng sẽ tham gia chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc.

Do đó, chúng ta tôn vinh những hiệp sĩ "bắt cướp" trên báo chí là rât tốt. Và chắc chắn xã hội sẽ có cách thức của riêng mình để tưởng thưởng xứng đáng cho những hành động nghĩa hiệp của họ.

Nhưng giá như, những "hiệp sĩ" này tham gia những đội dân phòng để hòa mình vào một phong trào lớn hơn thì hiệu quả bảo vệ an ninh xã hội của Đất nước có lẽ sẽ tăng cường lên rất nhiều lần.

Bởi khi đó, các hiệp sĩ "bắt cướp" sẽ trở thành một mắt xích rất đặc biệt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ Quốc.

Nghĩa là, họ vừa nằm trong hệ thống quyềm lực của Nhà nước nhưng lại không quá xa rời đối với nhân dân. Và dĩ nhiên, bầu nhiệt huyết "hành hiệp trượng nghĩa" của họ vẫn sẽ có dịp được thực hiện nhưng sẽ theo hướng có tổ chức, chuyên nghiệp và chu đáo hơn. Và điều này, không những có lợi cho sự an toàn của các "hiệp sĩ" mà còn có lợi cho sự nghiệp an ninh của toàn thể xã hội.

Nguyễn Văn Toàn
(http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/?vnnid=53310)

Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2011

Sao lại sợ nhân dân biểu tình?

Cuối tháng 11, có đại biểu Quốc hội cho rằng chưa nên xây dựng Luật biểu tình vì dân trí chưa cao và "có thể biến thành bạo loạn". Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chia sẻ góc nhìn của ông qua bài thơ Nhân dân.

1197300936-sc-2269

Nhân dân

Cúi mình trên đồng lúa
Lao lên các hỏa điểm chiến tranh
Lăn mình trong các cuộc xuống đường
Cặm cụi với sách vở

Họ là nhân dân thứ thiệt
Nhưng trên diễn đàn cao nhất nước
Có người nói nhân dân chưa đủ trí tuệ
Để hưởng luật biểu tình!

Tôi nghĩ mãi
Ai đã bầu ra ông nghị này nhỉ?
Sao lại sợ nhân dân biểu tình?
Không!

Sự sợ hãi không cứu được chúng ta
Mà chính là sự can đảm
Đi tới dân chủ.

Tháng 11/2011

Nguyễn Khoa Điềm
http://vnexpress.net/gl/ban-doc-viet/2011/11/sao-lai-so-nhan-dan-bieu-tinh/

Thứ Tư, 23 tháng 11, 2011

Sự vô tâm đáng sợ

vocamdangsoMột chiếc xe bus chở đầy khách đang chạy trên đường đồi.
Giữa đường, ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới cô lái xe xinh đẹp. Chúng bắt cô dừng xe và muốn “vui vẻ” với cô.
Tất nhiên là cô lái xe kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Lúc ấy một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng tay; nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Và cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường.
Một giờ sau, ba tên du côn và cô lái xe tơi tả trở về xe và cô sẵn sàng cầm lái tiếp tục lên đường…
“Này ông kia, ông xuống xe đi!” cô lái xe la lên với người đàn ông vừa tìm cách giúp mình.
Người đàn ông sững sờ, nói:
“Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?”
“Cứu tôi ư? Ông đã làm gì để cứu tôi chứ?”
Cô lái xe vặn lại, và vài hành khách bình thản cười.
Người đàn ông thật sự tức giận. Dù ông đã không có khả năng cứu cô, nhưng ông không nên bị đối xử như thế chứ. Ông từ chối xuống xe, và nói: “Tôi đã trả tiền đi xe nên tôi có quyền ở lại xe.”
Cô lái xe nhăn mặt nói: “Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy.”
Điều bất ngờ là hành khách, vốn lờ lảng hành động man rợ mới đây của bọn du côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe, họ nói:
“Ông ra khỏi xe đi, chúng tôi có nhiều công chuyện đang chờ và không thể trì hoãn thêm chút nào nữa!”
Một vài hành khách khỏe hơn tìm cách lôi người đàn ông xuống xe.
Ba tên du côn mỉm cười với nhau một cách ranh mãnh và bình luận: “Chắc tụi mình đã phục vụ cô nàng ra trò đấy nhỉ!”
Sau nhiều lời qua tiếng lại, hành lý của người đàn ông bị ném qua cửa sổ và ông bị đẩy ra khỏi xe.
Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình. Cô lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên hết cỡ.
Xe lên đến đỉnh đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi. Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút.
Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra trong hai mắt cô.
Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô lái xe:
“Chạy chậm thôi, cô định làm gì thế hả?”
Tên du côn tìm cách giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài vực như mũi tên bật khỏi cây cung....

(Sưu tầm từ blog của Kevind YangTrần Quốc Tuấn)

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

Đồng tiền

Đọc bài văn lạ của cậu học trò nghèo trường Amsterdam:

Trước đề văn nghị luận Nêu quan điểm của anh (chị) về vai trò của đồng tiền trong cuộc sống”, em Nguyễn Trung Hiếu, HS lớp 11 chuyên lý, Trường THPT chuyên Hà Nội-Amsterdam đã lấy ngay câu chuyện thật đang phải trải qua của gia đình mình để nhìn nhận, phân tích vai trò của đồng tiền.

Thư gửi mẹ.

Mẹ thân yêu của con !

“Trời ơi là trời ! Anh ăn đi cho tôi nhờ, đừng có nhịn ăn sáng nữa. Đừng có dở hơi đi tiết kiệm mấy đồng bạc lẻ thế, anh tưởng rằng thiếu tiền như thế thì tôi chết à ?”. Đó là những “điệp khúc” mẹ cất lên hàng ngày dạo gần đây vì con quyết định nhịn ăn sáng đi học để tiết kiệm chút tiền cho mẹ, cho gia đình. Có lúc mẹ còn gắt lên, hỏi con “Sao cứ phải đắn đo khổ sở về tiền đến thế nhỉ ?” .

Mẹ ơi, những lúc ấy mẹ đang giận nên con không dám cãi lại. Nhưng giờ đây con muốn được bày tỏ lòng mình rằng tại sao con lại có những suy nghĩ, hành động kì lạ như vậy. Vâng, tất cả là vì tiền. Chỉ đến tận bây giờ con mới nhận ra cả một quãng thời gian dài trước đó con đã non nớt, ngây thơ biết chừng nào khi nghĩ về tiền. Cách đây 8 năm bệnh viện đã chuẩn đoán mẹ bị suy thận mãn tính độ 4 (độ cao nhất về suy thận). 8 năm rồi nhà ta đã sống trong túng thiếu bần hàn, vì bố mẹ không kiếm được nhiều tiền lại phải dành tiền cho mẹ đi chạy thận. Nhưng bố mẹ vẫn cho con tất cả những gì có thể, và cậu bé học trò như con cứ vô tư đâu biết lo gì.

Hồi học tiểu học, tiền bạc đối với con là một cái gì đó rất nhỏ, nó là những tờ giấy với đủ màu có thể dùng để mua cái bánh, cái kẹo, gói xôi hay cái bánh mì … Con đâu có ngờ tiền chính là yếu tố quyết định sinh mạng mẹ mình, là thứ bố mẹ phải hàng ngày chắt bóp và bao người thân gom góp lại để trả cho từng ca lọc máu cho mẹ tại bệnh viện Bạch Mai, là thứ càng làm mẹ thêm đau đầu suy nghĩ khi mẹ buộc phải nghỉ việc làm vì điều kiện sức khỏe không cho phép.

Rồi đến khi con học lớp 8, mẹ càng ngày càng yếu và mệt, phải tăng từ 2 lên 3 lần lọc máu/ tuần. Những chỗ chích ven tay của mẹ sưng to như hai quả trứng gà, nhiều hôm máu thấm ướt đẫm cả tấm băng gạc. Do ảnh hưởng từ suy thận mà mẹ còn bị thêm viêm phổi và suy tim. Rồi ông lại bị ốm nặng, bố phải nghỉ việc ở nhà trông ông, nhà mình vì thế càng trở nên túng quẫn, mà càng túng thì càng khổ hơn. Tờ một trăm ngàn hồi ấy là một thứ gì đó xa xỉ với nhà mình. Cũng từ dạo ấy, đầu óc non nớt của con mới dần vỡ lẽ ra rằng tiền bạc chính là mồ hôi, nước mắt, là máu (theo đúng nghĩa đen của nó, vì có tiền mới được chạy thận lọc máu mà) và bao nỗi niềm trăn trở lo lắng của bố và mẹ.

Hôm trước con có hỏi quan điểm của mẹ về tiền bạc thế nào để con có thêm ý viết bài làm văn nghị luận cô giao. Mẹ hơi ngạc nhiên vì câu hỏi đường đột ấy. Rồi mẹ chỉ trả lời với 3 từ gọn lỏn “Mẹ ghét tiền”. Nếu con còn thơ dại như ngày nào, hay như một người ngoài nào khác thì chắc con đã ngạc nhiên lắm. Nhưng giờ đây con cũng đồng ý với mẹ : con cũng ghét tiền. Bởi vì nó mà mẹ phải mệt mỏi rã rời sau mỗi lần đi chạy thận. Mẹ chạy thận 3 lần mỗi tuần, trước đây bố đưa đón mẹ bằng xe đạp nhưng rồi mẹ bảo đi thế khổ cả hai người mà còn phải chờ đợi mất ngày mất buổi của bố nữa nên mẹ chuyển sang đi xe ôm. Nhưng đi xe ôm mất mỗi ngày mấy chục, tốn tiền mà lại chẳng kiếm đâu ra, mẹ quyết định đi xe buýt. Mỗi khi về nhà, mẹ thở hổn hển, mẹ lăn ra giường lịm đi không nói được câu gì. Con và bố cũng biết là lúc ấy không nên hỏi chuyện mà nên để yên cho mẹ nghỉ ngơi. Tám năm rồi, tám năm chứng kiến cảnh ấy nhưng con vẫn chưa bao giờ có thể quen được. Con chỉ biết đứng từ xa nhìn mẹ, và nghiến răng ước “giá như có dăm chục ngàn cho mẹ đi xe ôm thì đâu đến nỗi !”.

Con bỗng ghét, thù đồng tiền. Con bỗng nhớ hồi trước, khi mẹ vẫn nằm trong viện. Ba người bệnh chen chúc chung nhau một chiếc giường nhỏ trong căn phòng bệnh ngột ngạt và quá tải của bệnh viện Bạch Mai. Con đã ngây thơ hỏi mẹ “Sao mẹ không vào phòng bên kia, ở đấy mỗi người một giường thoải mái lại có quạt chạy vù vù, có tivi nữa ?”. Mẹ chỉ nói khẽ “cha tổ anh. Đấy là phòng dịch vụ con ạ”. Con lúc ấy chẳng hiểu gì. Nhưng rồi con cũng vỡ lẽ ra rằng đó là phòng mà chỉ những ai rủng rỉnh tiền thì mới được vào mà thôi. Còn như mẹ thì không được. Con căm nghét đồng tiền vì thế.

Con còn sợ đồng tiền nữa. Mẹ hiểu con không ? Con sợ nó vì sợ mất mẹ. Mẹ đã phải bốn lần đi cấp cứu rồi. Những người suy thận lâu có nguy cơ tử vong cao vì huyết áp dễ tăng, máu dồn vào dễ làm tắc ống khí quản và gây tắc thở. Mẹ thừa biết điều này. Nhiều người bạn mẹ quen trong “xóm chạy thận” đã phải chịu những cái kết bi thảm như thế. Nhiều đêm con bỗng choàng tỉnh dậy, mồ hôi đầm đìa mà lạnh toát sống lưng bởi vừa trải qua một cơn ác mộng tồi tệ …

Con sợ mẹ lại phải đi cấp cứu, và sợ nhỡ nhà mình không đủ tiền để nộp viện phí thì con sẽ mất đi người thân yêu nhất trong cuộc đời này. Mỗi buổi mẹ đi chạy thận là mỗi buổi cả bố và con đều phấp phỏng, bồn chồn, lo lắng. Mẹ về muộn là lòng con nóng như lửa đốt, còn bố thì cứ đi đi lại lại và luôn hỏi “bao giờ mẹ mày mới về?”. Với con cơ hội là 50/50, hoặc là mẹ chạy thận an toàn và về nhà, hoặc là …

Con lo sợ hơn khi đọc báo thấy bảo có người không đủ tiền trả phần ít ỏi chỉ là 5% bảo hiểm y tế, tiền thuốc men mà phải về quê “tự điều trị”. Với những bệnh nhân phải chạy thận, như thế đồng nghĩa là nhận bản án tử hình, không còn đường sống. Con bỗng hoảng sợ tự hỏi nếu không còn BHYT nữa thì sao? Và nếu ông mất thì sao? Chi tiêu hàng ngày nhà mình giờ đây phần nhiều trông chờ vào tiền lương hưu của ông, mà ông thì đã già quá rồi …

Mẹ ơi, tiền quan trọng đến thế nào với gia đình mình thì chắc mẹ hiểu rõ hơn con. Cứ nghĩ đến tiền là con lại nhớ đến những đêm bố mất ngủ đến rạc cả người, nhớ đến những vết chích ven sưng to như quả trứng gà của mẹ, nhớ đến cả thìa đường pha cốc nước nóng con mang cho mẹ để mẹ uống bồi bổ mỗi tối. Mẹ chắt chiu đến mức sữa ông thọ rẻ tiền mà cũng không mua để tự bồi dưỡng sức khỏe cho mình.

Con sợ tiền mà lại muốn có tiền. Con ghét tiền mà lại quý tiền nữa mẹ ạ. Con quý tiền và tôn trọng tiền bởi con luôn biết ơn những người hảo tâm đã giúp nhà mình. Từ những nhà sư tốt bụng mời mẹ đến chùa vào cuối tuần, những cô bác ở Hội chữ thập đỏ quyên góp tiền giúp mẹ và gia đình mình. Và cả những người bạn xung quanh con, dù chưa giúp gì được về vật chất, tiền bạc nhưng luôn quan tâm hỏi thăm sức khỏe của mẹ… Nhờ họ mà con cảm thấy ấm lòng hơn, vững tin hơn.

Con cảm thấy bất lực ghê gớm và rất cắn rứt lương tâm khi mẹ không đồng ý với các kế hoạch của con. Đã có lúc con đòi đi lao động, đi làm gia sư hay đi bán bánh mì “tam giác” như mấy anh sinh viên con quen để kiếm tiền giúp mẹ nhưng mẹ cứ gạt phăng đi. Mẹ cứ một mực “tống” con đến trường và bảo mẹ chỉ cần con học giỏi thôi, con giỏi thì mẹ sẽ khỏe.

Vâng, con xin nghe lời mẹ. Con vẫn đến trường. Con sẽ cố gắng học thật giỏi để mẹ và bố vui lòng. Nhưng mẹ hãy để con giúp mẹ, con đã nghĩ kĩ rồi, không làm gì thêm được thì con sẽ nhịn ăn sáng để tiết kiệm tiền. Không bán bánh mì được thì con sẽ ăn cơm với muối vừng. Mẹ đừng lo mẹ ạ, mẹ hãy an tâm chạy chữa và chăm sóc cho bản thân mình. Hãy để con được chia sẻ sự túng thiếu tiền bạc cùng bố mẹ. Vậy con khẩn thiết xin mẹ đừng cằn nhằn la mắng con khi con nhịn ăn sáng. Mẹ đừng cấm đoán con khi con đi lấy chầy, cối để giã lạc vừng. Dù con đã sút 8 cân so với năm ngoái nhưng con tin rằng với sự thấu hiểu lẫn nhau giữa những người trong gia đình thì nhà ta vẫn có thể sống yên ổn để đồng tiền không thể đóng vai trò cốt yếu trong việc quyết định hạnh phúc nữa.

Đứa con ngốc nghếch của mẹ

Nguyễn Trung Hiếu

Thứ Năm, 3 tháng 11, 2011

Tôi ú ớ và tôi xấu hổ

Lang thang trên mạng, vô tình tìm được bài thơ của Chế Lan Viên hay quá:

linhgiavs

Ai? Tôi!

Mậu Thân hai nghìn người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có ba mươi
Ai chịu trách nhiệm về cái chết hai nghìn người đó?
Tôi! Tôi – người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình
trong mọi cuộc xung phong.
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ,
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Ai chịu trách nhiệm vậy?
Lại chính là tôi!
Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời,
Tôi ú ớ.
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ.
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.

Chế Lan Viên
1987

Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

Một bài thơ quen




Hình như ai trong chúng ta cũng đã đọc qua bài thơ "Những phút xao lòng" của Nhà thơ Thuận Hữu rồi. Tôi cũng thế, đã đọc nhiều lần nhưng cũng vẫn thích xem lại. Cho nên hôm nay ghi lại đây để mà nhớ, để mà tự nhìn lại mình...


NHỮNG PHÚT XAO LÒNG

Thuận Hữu

Có thể vợ mình xưa cũng có một người yêu 
(Người ấy gọi vợ mình là người yêu cũ) 
Cũng như mình thôi, mình ngày xưa cũng thế 
Yêu một cô, giờ cô ấy đã có chồng. 
Có thể vợ mình những phút mềm lòng
Nên giấu những suy tư không kể về giấc mộng 
Người yêu cũ vợ mình có những điều mà chính mình không có được 
Cô ấy không nói ra vì sợ mình buồn 


Mình cũng có những phút giây cảm thấy xao lòng 
Khi gặp người yêu xưa với những điều vợ mình không có được 
Nghĩ về cái đã qua nhiều khi nuối tiếc 
Mình cũng chẳng nói ra vì sợ vợ buồn 
Sau những lần nghĩ đến đâu đâu mình thương vợ mình hơn 
Và cảm thấy như mình có lỗi 


Chắc vợ mình hiểu điều mình không nói 
Cô ấy cũng thương yêu và chăm chút mình hơn
Mà có trách chi những phút xao lòng 
Ai cũng có một thời để yêu và một thời để nhớ 
Ai cũng có những phút giây ngoài chồng ngoài vợ
Đừng trách chi những phút xao lòng!

Thứ Tư, 1 tháng 6, 2011

Tổ Quốc nhìn từ biển


Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa

Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn

Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
Trong hồn người có ngọn sóng nào không

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo
Lạc Long cha nay chưa thấy trở về
Lời cha dặn phải giữ từng thước đất
Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi

Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể
Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù
Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ
Thương Hòn Mê bão tố phía âm u

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích
Những đau thương trận mạc đã qua rồi
Bao dáng núi còn mang hình góa phụ
Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ, ru nôi

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa
Đã mười lần giặc đến tự biển Đông
Những ngọn sóng hóa Bạch Đằng cảm tử
Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng

Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo
Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn
Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy
Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân

Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả
Những chàng trai ra đảo đã quên mình
Một sắc chỉ về Hoàng Sa thuở trước
Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi

Nguyễn Việt Chiến

Bài đã được xuất bản.: 30/05/2011 07:30 GMT+7 trên tuanvietnam.net

Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2011

Một sự cẩu thả có tính toán

Chuyện ông Cù Huy Hà Vũ thì mọi người nói đến quá nhiều rồi, cả lề trái lẫn lề phải, do vậy nên tôi không bàn đến nữa, nhưng tôi thấy ý kiến của Giáo Sư Ngô Bảo Châu viết trên blog thichhoctoan của riêng ông quả là xác đáng nhất, vì rõ ràng chúng ta không thể lấy sự cẩu thả và sự sợ hãi làm phương pháp bảo vệ chế độ được. Xin trích đăng lại đây để mà nhớ:

Về sự sợ hãi

Tôi vốn không đặc biệt hâm mộ ông Cù Huy Hà Vũ. Những lý lẽ ông đưa ra tôi cũng không thấy có tính thuyết phục đặc biệt. Nhưng với những gì xảy ra gần đây, ông thể hiện mình như một con người không tầm thường. Như Hector người thành Troy, như Turnus người Rutuli hay như Kinh Kha người nước Vệ, ông Vũ không hề sợ hãi khi phải đối mặt với số phận của mình. Những nhân vật huyền thoại này đã làm mọi thứ để được đối mặt với số phận, để hoàn thành sứ mệnh của mình trong cuộc đời này.

Đối diện với ông Vũ là những người bắt ông bằng hai bao cao su đã qua sử dụng, là phiên tòa nửa công khai, nửa bí mật xảy ra ngày hôm qua và là ông quan tòa từ chối thực hiện thủ tục tố tụng để tránh tranh luận về nội dung những bài viết, chứng cớ về những việc được cho là vi phạm pháp luật của ông Vũ. Có cố tình làm mất thể diện quốc gia, chắc cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này. Nghĩ mãi tôi cũng chỉ tìm ra hai cách lý giải. Khả năng thứ nhất là họ muốn làm nhanh cho xong việc. Trong trường hơp này, họ rất xứng đáng được truy cứu trách nhiệm. Khả năng thứ hai là ông quan tòa sợ phải đối mặt với những lý lẽ của ông Vũ. Trong trương hợp này, rất nên tạo điều kiện cho ông ta chuyển sang công tác khác, phù hợp hơn. Không thể lấy sự cẩu thả và sự sợ hãi làm phương pháp bảo vệ chế độ.

GS Ngô Bảo Châu
http://thichhoctoan.wordpress.com