Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2009

Giuđa hay là tôi…?

Nói đến Giuđa Iscariốt, ai cũng biết, Ông là kẻ phản bội Chúa Giêsu, là kẻ bán đứng Thầy mình. Nhưng khi tranh luận về Giuđa thì nhiều thắc mắc được nêu lên: Giuđa là kẻ có công hay có tội? Là bậc ái quốc đại trượng phu hay là kẻ phản bội tiểu nhân? Giuđa lên thiên đàng hay xuống hoả ngục? Mùa Chay lại đến, một lần nữa, tôi và bạn cùng nhìn lại gương mặt nhiều màu sắc ấy của một người từng là môn đệ Chúa. Mùa Chay là dịp thuận tiện để tôi và bạn soi mình vào “tấm gương Giuđa” mà nhìn thấy rõ thân phận yếu đuối, mỏng giòn của con người mình chẳng khác gì con người tội lỗi Giuđa ngày xưa. Để rồi từ đó, tôi và bạn xin ơn biến đổi và cảm nghiệm sâu xa hơn lối đường chúng ta đang chọn, đang dấn thân, cũng như xin ơn nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho con người và dành cho ơn gọi của tôi và bạn.

Thường khi nói đến Giuđa, người ta nghĩ ngay đến một người mặc đồ đen từ bên ngoài đến bên trong tâm hồn, tưởng tượng Giuđa với cặp mắt dữ dằn, gương mặt phản trắc của một tên lưu manh… Thật ra, rất có thể tôi và bạn đang sánh vai với Giuđa trong đám đông, đang bàn bạc với Giuđa trong mọi kế hoạch, và có những lúc, tôi và bạn đã quỳ bên cạnh Giuđa trong nhà thờ… vì Giuđa trước hết là một tông đồ mà! Có người đồng hoá Giuđa với Satan, và hơn một người đã nâng Giuđa lên hàng thánh nhân, vì lý do: Giuđa là điều kiện không thể thiếu được trong chương trình cứu rỗi của Chúa!

Thật ra, Giuđa ở giữa hai thái cực đó, giữa một thằng quỷ và một ông thánh, giữa một tên lưu manh và một vị anh hùng. Vì Giuđa là một con người. Có một điều chắc chắn: Giuđa không phải là kẻ đốn mạt, mất trí. Bởi nghi ngờ điều này là nghi ngờ sự khôn ngoan và đường hướng của Chúa và của Thiên Chúa Cha. Trong Lc 6, 12-16 viết: Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu ra núi cầu nguyện và Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Ngài kêu các môn đệ lại và chọn lấy trong họ nhóm 12, Ngài gọi họ là Tông đồ: Simon, Anrê… và Giuđa Iscariot. - Suốt đêm, Chúa Giêsu đã cầu nguyện để rồi chọn Tông đồ Giuđa. Điều ấy thật rõ ràng. Giuđa đã được chọn sau một đêm Chúa thức trắng cầu nguyện. - Giuđa đã được chọn để trở nên một Tông đồ. Giuđa được đặt ngang hàng với Phêrô, Anrê, Mathêu, Philip và những Tông đồ khác. Giuđa được nghe những gì họ nghe, thấy những gì họ thấy. - Giuđa cũng đi rao giảng Nước Trời như họ. - Giuđa không được chọn để quay lưng với Chúa, để phản bội Ngài.

Chúa Giêsu có lầm khi chọn Giuđa không? Tại sao Thiên Chúa lại chọn Giuđa dù biết rõ con người Giuđa? Chúa không lầm khi chọn Giuđa. Chúa không lầm khi chọn những Tông đồ khác. Chúa không lầm khi chọn gọi tôi và bạn. Bởi vì, Kinh Thánh cho thấy: đâu phải Thiên Chúa chỉ chọn những con người xứng đáng, mà Giuđa cũng như tôi và bạn, đã được chọn để thanh luyện, để được nâng cao lên, để nên xứng đáng hơn. Giuđa đã nhanh chóng đáp lại tiếng gọi của Đức Kitô. Ông muốn trở nên môn đệ Chúa. Ông đã từ bỏ tất cả để theo Chúa không một chút do dự và Giuđa đã được cả nhóm đón nhận. Họ đã chọn ông làm thủ quỹ, vì họ tôn trọng tài năng của ông. Họ quý mến và tin cẩn ông, dù ông là người miền nam duy nhất trong số 12 Tông đồ.

Thật ra Giuđa không xuất hiện từ đầu như một người quay lưng lại với Chúa, bởi không ai bỗng dưng mà phản bội. Giuđa không thay trắng đổi đen đầu hôm sớm mai, mà ông đã bước dần đến hố thẳm, ông bước đi từng bước một… và mỗi lần Giuđa bước thêm một bước gần đến hố thẳm là mỗi lần ông được Đức Giêsu nhắc nhở, cảnh báo một cách kín đáo nhưng thật rõ ràng. Tin Mừng có ghi lại cách rõ ràng những bước chân sai phạm đó của Giuđa. Lần 1: khi đám đông bỏ đi vì những lời giảng thật khó nghe về bánh hằng sống của Ngài, Chúa đã hỏi các Tông đồ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ Thầy mà đi sao?”. Và trước lời xác quyết chắc nịch của Phêrô Simon: “chúng con biết theo ai, vì Thầy mới có Lời hằng sống”. Chúa nói một câu mà chỉ có Giuđa hiểu: “Chẳng phải Thầy đã chọn cả 12 người đó sao? Thế mà một trong anh em là quỷ dữ” (Ga 6, 67). Như thế, Chúa biết trước về Giuđa như Thánh Vịnh 41, 10 tiên báo: “Kẻ cùng con chia cơm sẻ bánh, lại giơ gót đạp con”. Chúa Giêsu biết rõ lời tiên báo ứng nghiệm nơi chính con người Giuđa, vì có những dấu hiệu ngày càng rõ: sự suy giảm nhiệt tình, sự cứng cỏi, sự biếng nhác cầu nguyện, sự tự mãn kiêu căng trong đời sống đạo đức, tính ham mê lời khen và sự nể vì.

Chính vì thế có lần Chúa đã nhắc nhở: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy”. Và hơn một lần, trước lời trầm trồ của một phụ nữ: “Phúc cho lòng dạ nào đã cưu mang Thầy, và phúc cho vú nào đã cho Thầy bú mớm”, thì Chúa xác quyết: “Ai nghe và làm những điều ta nói đây, thì ví như người khôn xây nhà trên đá”. Chúa Giêsu đã nói nhưng Giuđa nào đâu có biết! Giuđa không nghĩ rằng kẻ tội nghiệp đó chính là mình. Như David xưa cũng không nhận ra tên nhà giàu tham lam, độc ác trong câu chuyên của Nathan lại là chính mình. Giuđa vẫn cảm thấy thoải mái với Chúa, an tâm với công việc mà ông gọi là dấn thân , phục vụ! Lần 2: Khi gặp Giuđa, thì ông đã trở nên một tên ăn cắp mà mãi sau này người ta mới phát hiện ra. Lúc Maria lấy dầu thơm trong bình bạch ngọc xức lên chân Chúa, Giuđa bảo: “Sao không đổi lấy 30 đồng mà cho người nghèo ?”. Nhưng Thánh Gioan sau này giải thích: “Giuđa nói những lời này không phải vì bận tâm đến người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp, y giữ ví tiền, nên cái gì bỏ vào túi y là y phỗng mất” (Ga 12, 5-6). Giuđa cũng như tôi và bạn đi theo Chúa, ngay từ đầu đều có mục đích, một chí hướng. Nhưng tiếc thay, ý hướng ngay lành đó có thể đang bị méo mó, bị cám dỗ dưới quá nhiều hấp dẫn của sự đời. - Ông tỏ ra thương yêu người nghèo, nhưng bên trong đầy những tính toán vụ lợi. - Ông đưa ra bên ngoài khuôn mặt nhân ái, để che giấu bên trong lòng ganh ghét đố kỵ. - Trên môi ông là những lời lẽ vị tha nhân ái, nhưng trong tâm tư là những nguyên do vị kỷ thấp hèn. - Ông là kẻ luôn nói đúng, nhưng lại làm sai hoặc chẳng làm gì cả. - Ông là người phục vụ chính mình, thay vì phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Và cứ thế mà tiến, những bước chân của Giuđa đã đưa ông đến bờ vực của sự phản bội.

Câu hỏi được đặt ra: vì sao Giuđa lại làm thế? Lại trở nên một kẻ chỉ điểm, ám hại, bán đứng Chúa Giêsu? Có nhiều cách giải thích, nhưng Kinh Thánh trả lời: “Satan đã nhập vào Giuđa, gọi là Iscariot”. (Ga 13,2/ Lc 22,3-4) Dĩ nhiên, Satan không thể tự tông cửa mà vào, nhưng chính Giuđa đã vui lòng tự ý mở cửa. Giuđa đã phản bội Thầy mình. Thật ra, ông có thể chỉ cho họ biết nơi ở của Chúa Giêsu, có thể mô tả cách ăn mặc của Chúa để giúp họ nhận diện. Nhưng không, chính ông đã đến tố giác Chúa, tố giác bằng một cái hôn. Với Giuđa, dấu chỉ của yêu thương trở thành hành động của sự phản bội. Giuđa đã bỏ lỡ nhiều cơ hội Chúa đã dành cho ông. Ông đã từ chối những cánh cửa Chúa đã mở cho ông. Chúa Giêsu biết rất rõ Giuđa sẽ phản bội, sẽ bán đứng mình bằng một cái hôn. Ngài còn biết rất rõ rằng: Giuđa có nhiều khả năng, Giuđa có thể đổi đời và Ngài hy vọng ông sẽ đổi đường đi để đời ông đơm hoa kết trái. Chính vì thế, Ngài đã chọn Giuđa. Chúa chọn Giuđa không vì Giuđa xứng đáng mà để ông được biến đổi và nên xứng đáng hơn.

Bữa tiệc ly bắt đầu bằng một cử chỉ khiêm hạ đến rợn người. Chúa rửa chân cho các môn đệ, cho Phêrô và cho cả Giuđa. Ngài rửa chân cho Giuđa để ông tỉnh thức, để các tông đồ khác sau này hiểu rằng: dù biết trước sẽ bị bán đứng, nhưng Chúa vẫn luôn yêu thương Giuđa. Dù con người bất trung bất xứng tới đâu, Thiên Chúa vẫn một niềm trung tín, vì Ngài là tình yêu… biết mình bị phản bội mà vẫn cứ yêu thương. Ngài cúi xuống rửa chân cho Giuđa, mong ông nhìn ra tình thương của Ngài. Nều Giuđa bắt được cái nhìn đó, có lẽ ông đã có một “sức bật” như Phêrô và sẽ không đi đến vực thẳm tuyệt vọng. Trao tấm bánh cho Giuđa, Chúa muốn mở cho ông một lối thoát sau này. Ngài muốn các môn đệ khác không hận thù, tảy chay, nhưng vẫn để cho Giuđa là thành viên của nhóm 12. Chúa vẫn rất thương ông dù Giuđa có đốn mạt đến dâu đi chăng nữa. Ngài hy vọng ông sẽ thay đổi và sẽ lại là một tông đồ. Vì Thiên Chúa là Đấng “không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Nhưng khốn nỗi, trong bữa tiệc ly hôm ấy, chỉ một mình Gioan là hiểu được tấm lòng của Ngài. Và Chúa Giêsu biết Gioan hiểu mình. Gioan hiểu Chúa muốn anh em đừng làm khổ Giuđa, Gioan hiểu: Chúa muốn ông đứng ra làm chứng nếu sau này anh em có làm phiền Giuđa. Cho đến phút cuối, Giuđa cũng đã nhận ra tấm lòng của Chúa (Mt 27,3-10). Ông hối hận, ông xưng thú tội công khai và sẵn sàng đền tội. Nhưng điều đáng tiếc là cách hành xử của ông đã làm uổng phí những cố gắng của Chúa. Ông đã để lỡ cơ hội của Chúa, vì ông không thể tin rằng ông lại có thể được tha thứ, lại có cơ hội để sửa đổi. Ông đã để lỡ cơ hội của đời mình, vì ông không tin rằng Chúa lại có thể thương mình đến như thế!

Cái chết của Giuđa vén tỏ một chân lý: quỷ dữ và con người chỉ khác nhau có mỗi một điều: cả hai cùng có thể sa ngã, nhưng quỷ dữ thì sa ngã luôn, còn con người vẫn có cơ hội chỗi dậy, phục hồi và đi tới. Cái chết của Giuđa cho tôi và bạn nhận ra rằng: trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa, cho dù có chậm chạp, té ngã nhiều đến đâu, nếu biết chỗi dậy trong hành trình đi theo Chúa, chúng ta không bao giờ trễ cả. Một ai đó đã ví von: “hãy nhìn về phía mặt trời, bóng tối sẽ ở sau lưng bạn”. Như thế trở về với Chúa cũng là một cuộc chọn lựa, gạn đục khơi trong, bóc hết lớp vỏ bề ngoài mau qua, để dung nhan Thiên Chúa rạng ngời nơi tâm hồn. Ơn gọi dấn thân, phục vụ của tôi và bạn không phải chạy theo nghi lễ bề ngoài, hay những nhu cầu giả tạo mau qua, cũng không sa lầy vào thói phô trương công đức, hay bằng lòng với một vài hoạt động rình rang nhưng rỗng tuếch vì thiếu sức sống, thiếu tình người. Nhưng là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Đức Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tối tăm, những thân phận hẩm hiu, sao cho dung mạo nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh. Như thế, tôi và bạn đang cộng tác vào việc biến đổi thế giới, đang theo chân Đức Kitô để cùng với Ngài đưa nhân loại vào hành trình phục sinh, khởi đi từ chính những đổi thay ngay từ hôm nay trong lối sống, trong cách nhìn, trong nếp nghĩ của chính mình.

Mùa Chay là một chặng dừng cần thiết của cuộc hành trình nội tâm của tôi và bạn. Đó là giờ của ân sủng, là thời gian Thiên Chúa yêu thương con người. Cuộc hành trình của con sâu gỡ mình ra khỏi tổ kén để trở thành cánh bướm, tương tự như cuộc “lột xác” của tôi và bạn, gỡ bỏ mọi khuynh hướng xấu của đam mê và tội lỗi để có thể gặp Chúa nơi tha nhân, là cuộc hành trình của hạt mầm đâm chồi vươn lên cho vụ mùa tốt tươi. Hãy cúi mình xuống trong chân thành, khiêm hạ để có thể mở rộng tâm hồn với ân sủng Chúa ban qua những biến cố, những thành công, niềm vui và cả những thất bại, rã rời của tôi và bạn, vì biết rằng Chúa vẫn luôn mở ra cho tôi và bạn những cơ hội mới. Bởi dù sao đi nữa, tôi và bạn không bao giờ thất vọng vì tin rằng Chúa luôn bên chúng ta và Chúa cũng không bao giờ thất vọng về chúng ta.

(Copy từ TuGiaVi )

Gỗ và nước sơn

2mj2 Ông bà mình thường nói: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn" tôi nghĩ câu này ai cũng biết quá đi rồi, tuy nhiên nếu gỗ tốt và nước sơn cũng tốt nữa thì có lẽ đôi guốc cuộc đời sẽ đẹp hơn nhiều, lâu hư, lâu mục, lâu tróc và lâu phai. Mấy ngày nay, tin ông hoàng Mai-cồ qua đời làm xôn xao cộng đồng cư dân trên mạng, đột nhiên tôi lại nhớ đến cái câu tục ngữ này của ông bà ta xưa nay. Đối với Michael Jackson, một điều không thể chối cãi là gỗ quá tốt, nhưng cái nước sơn mà ông cố tình tô trét chẳng hiểu có phải để chối bỏ gốc gác da đen của mình đi hay không thì tôi chê thật, càng thẩm mỹ thì càng xấu, do đó mà từ sau album Thrillers của ông, nói chính xác là từ sau bài Heal The World thì tôi ghét anh chàng này thật sự, nói ghét nghĩa là ghét gương mặt ông thôi, chứ tiếng ca thì đến bây giờ vẫn còn mê mẩn, nhìn gương mặt đầy vết dao kéo thẩm mỹ của ông là tôi không chịu nổi, chưa nói đến những vụ tình ái tình dục lăng nhăng khác, tôi thấy không thích nhìn mặt ông một chút nào, cho dù chỉ là thoáng qua trên TV. Trong tôi chỉ lưu lại tiếng hát hết sức tuyệt vời của ông để hối tiếc cho dao kéo đã biến đổi gương mặt rất đẹp của một cậu bé da đen dễ thương trong ban nhạc Jackson Five ngày xưa mà thôi. Bởi vậy gỗ Mai-cồ tốt quá, sao lại bôi nước sơn giả dối lên làm chi để cho nó phản chủ, nó chống lại tình yêu mến cuồng nhiệt trong tôi đối với một thần tượng ngay từ lúc tôi còn rất bé, bắt đầu say mê con đường âm nhạc mà mãi đến nay vẫn còn rất cuồng nhiệt.

Tôi đến với âm nhạc nước ngoài cũng khá sớm, năm lớp đệ Ngũ thì phải. Đối với thời đại bây giờ thì một cậu bé lớp Tám như tôi hồi đó dư sức và rành rẽ về âm nhạc rồi, vì ngày nay phương tiện truyền thông quá nhiều, không như ngày xưa thời chúng tôi, sang lắm mới có được một máy hát đĩa 45 vòng hoặc sang hơn nữa thì có thêm một dàn AKAI Hi-Fi với hai cuộn băng to đùng phía trên, phía dưới có hai đồng hồ âm thanh nhấp nháy trông hấp dẫn đến phát thèm. Anh chị tôi cũng thuộc dạng mê nhạc nên chấp nhận ăn mắm ăn muối để dành tiền sắm một dàn máy hát đĩa cho cả nhà nghe, nhạc Việt Nam thì thường mua đĩa do hãng Asia phát hành thường xuyên, từ tân nhạc cho đến vọng cổ, nhưng nhạc nước ngoài thì khá hiếm, thỉnh thoảng có ai đấy đi nước ngoài mang về hoặc ai đấy quen với các anh bạn Mỹ xin về hoặc mượn về nghe, do đó mà tôi biết Michael của Jackson Five từ rất sớm, trước cả Beatles. Thời đó tôi mê nhất là Elvis Presley, Cliff Richard, Jackson Five và Beatles, sau này mới biết và mê thêm Johnny Cash và anh em nhà Carpenter, nhiều lúc mê mệt đến cuồng điên, nói cuồng điên là vì không như bây giờ, hồi đó nghe đến gần như thuộc lòng nhưng không tìm đâu ra nhạc và kể cả lời, thí dụ như hồi đó quá mê bài It's now or never, Do the claim... của Elvis hoặc I'll be there của Jackson Five, hoặc Hey Jude của Beatles, Evergreen tree của Cliff Richard... nhưng không biết đào đâu ra, đành ngồi ghi lại lời với một trời chính tả tiếng Anh sai be bét rồi đem đi nhờ anh chị hoặc thầy giáo Anh văn chỉnh lại cho đỡ sai một tí, thế rồi ngồi nhẩm nhẩm mà học, nhẩm nhẩm mà hát, hát mãi đến gần 40 chục năm rồi mà cũng vẫn còn... hơi thuộc đây nè, chứ đâu phải như bây giờ chỉ cần đôi ba cái click chuột là có đủ, kể ra như thế để biết ngày xưa tôi mê nhạc đến chừng nào, trong đó cái cậu bé Michael nho nhỏ đâu cũng bằng tuổi mình mà giọng ca trong trẻo còn hơn tiếng suối reo róc rách đã làm cho tôi bắt đầu biết mê, biết tận hưởng cái thứ nghệ thuật âm nhạc cực kỳ thú vị ấy, cũng vì niềm đam mê và ước mơ ấy nên sau này con cái tôi thành đạt, chúng biết tôi mê đến mỏi mòn nên mua tặng tôi cây piano chở về làm tôi mừng đến phát khóc là vậy, cho dù tôi chỉ biết tập tễnh chơi thôi chứ không hay ho gì.

Tôi biết Michael từ dạo ấy, tôi mê mệt ông từ dạo ấy, mãi đến khi ông lớn lên, cùng với Steve Wonder, Lionel Ritchie và vài chục ca sĩ khác cất lên bài We are the world đã làm tôi nao cả lòng, sau lại nghe thêm Heal the World cùng các em nhỏ thì đúng là tôi mê mệt, nhưng cứ tưởng tượng ra gương mặt dao kéo thẩm mỹ đã làm mất đi cái hồn người của ông, tôi lại cảm thấy chán ngán, rồi sau lại đến những bước nhảy thần kỳ làm mê mệt bao người, tôi cũng chẳng thấy thú vị gì, chỉ muốn mở đĩa ra nghe mà thôi, chứ nhìn gương mặt trắng bệt giả tạo với cặp kiếng đen, tôi sợ rằng e mình không chừng cũng lại ghét cả giọng ca của ông nữa thì nguy, thôi thì chỉ nghe nhạc thôi cũng là đủ rồi, thưởng thức cái tốt gỗ thôi là đủ rồi, còn cái nước sơn kia đừng nhắc tới mà thêm chán.

Chỉ tiếc cho ông, giá như ta có một Michael da đen chính hiệu, một Michael mũi to chính hiệu, một Michael môi dày chính hiệu thì sẽ là một Michael quyến rũ thực sự và đi vào lòng người hơn, in đậm dấu ấn trong lòng người hơn. Tuy nhiên, đây chỉ là quan niệm của riêng tôi, có thể những người khác không muốn thế, nhưng tôi chỉ muốn nói lên cảm nhận của riêng mình mà không dám quy chụp tất cả. Ngày nay Michael đã ra đi, thôi thì chấm dứt ba cái vụ lạm dụng tình dục lăng nhăng, chấm dứt dao kéo thẩm mỹ rổn rảng, chấm dứt những đôi bao tay, những cặp kiếng đen giả tạo để có được một giọng ca Michael tuyệt vời in mãi trong lòng người, một ngôi sao Michael tài năng xuất chúng trên bầu trời âm nhạc thế giới, tôi nghĩ có lẽ sự ra đi của ông như thế mà lại tốt hơn đấy, để những thứ nước sơn giả tạo kia không còn chỗ đứng, nhưng đó chỉ là ước muốn của riêng tôi thôi, chứ ngày nay ca sĩ và diễn viên mà không dao kéo thẩm mỹ e coi bộ hơi hiếm, con người chúng ta hôm nay khá phũ phàng trong cảm nhận, thường xem nước sơn thế nào đã rồi mới để ý tới gỗ, đành chịu vậy thôi, hiện đại mà!

Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2009

Trịnh Công Sơn Và Tham Vọng Chính Trị

hchup271 Cách đây mấy tháng, Họa sĩ Trịnh Cung có viết bài Trịnh Công Sơn Và Tham Vọng Chính Trị đang gây tranh cãi xôn xao trên các diễn đàn báo chí trong nước và hải ngoại, nhất là ở trên mạng. Sự thật thế nào và ra sao? Những người trong cuộc và những nhân chứng còn sống sẽ cho chúng ta những câu trả lời đích thực. Do đó mà nay chúng tôi xin trích đăng lại bài viết này như là một kênh thông tin quý giá về Trịnh Công Sơn để mong có được những cảm nhận đa chiều, thiết thực và công bình hơn về một nhạc sĩ vừa tài hoa vừa khó hiểu này. Dù sao đi nữa, đây là một bài viết rất hay, cho dù nó đạp đổ thần tượng của của nhiều người, trong đó hình như có cả tôi...

Lời Tòa soạn:

Trịnh Công Sơn & Tham Vọng Chính Trị của họa sĩ Trịnh Cung nhất định sẽ được đón nhận với nhiều phản ứng khác nhau từ nhiều tầng lớp độc giả. Bài viết đưa ra một số nhận xét của cá nhân Trịnh Cung về người nhạc sĩ tài hoa, sống và sáng tác trong một giai đoạn vô cùng điêu linh của đất nước, cùng với một số tư liệu đã được công bố ở một số nơi. Tác giả Trịnh Cung tất nhiên đã dự kiến được những gì bài viết này có thể mang đến cho chính ông khi ông viết: “Bài viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát tình cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn có của tôi, vì một số những nhân vật được đề cập nay đang còn hiện diện trong cuộc đời. Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá.”

Tạp chí Da Màu trân trọng ghi nhận tinh thần trách nhiệm của hoạ sĩ Trịnh Cung, và bài viết được đăng tải với ước muốn tạo cơ hội làm sáng tỏ những ngóc ngách trong đời sống của một nghệ sĩ tài hoa nay đã thành người thiên cổ.

Trịnh Công Sơn không quan tâm đến chính trị?

hchup269 Đã 8 năm kể từ ngày mất của Trịnh Công Sơn, 01-4-2001. Đã có rất nhiều bài và sách viết về người nhạc sĩ tài hoa xuất chúng này. Tất cả đều chỉ nói về 2 mặt: tình yêu (con người, quê hương) và nghệ thuật ngôn từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn, tuyệt nhiên không thấy ai đề cập đến vấn đề Trịnh Công Sơn có hay không tham vọng chính trị. Phải chăng như Hoàng Tá Thích, ông em rể của người nhạc sĩ “phản chiến” huyền thoại này đã minh định trong bài tựa cuốn sách Như Những Dòng Sông của mình nói về âm nhạc và tình người của ông anh rể Trịnh Công Sơn, do nhà Xuất Bản Văn Nghệ và Công Ty Văn Hoá Phương Nam ấn hành năm 2007: “…Anh không bao giờ đề cập đến chính trị, đơn giản vì anh không quan tâm đến chính trị”? Hay như nhận định của một người bạn không chỉ rất thân mà còn là một “đồng chí” (trong ý nghĩa cùng một tâm thức về chiến tranh VN) của Trịnh Công Sơn, hoạ sĩ Bửu Chỉ (đã mất) đã viết: “Trong dòng nhạc phản chiến của mình, TCS đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả” (Trích bài viết: “Về Trịnh Công Sơn và Những Ca Khúc Phản Chiến Của Anh”, in trong Trịnh Công Sơn, Cuộc Đời, Âm Nhạc, Thơ, Hội Hoạ & Suy Tưởng do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn ấn hành năm 2005)? (Trong hình từ trái sang: Trịnh Công Sơn - Đinh Cường - Trịnh Cung - Văn Cao)

Sự thực có đúng như câu khẳng định chắc nịch ở trên của ông Hoàng Tá Thích và hoạ sĩ quá cố Bửu Chỉ? Chắc chắn là sai 100% rồi nếu như Trịnh Công Sơn không là tác giả của 3 tập nhạc phản chiến (Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam và Ta Phải Thấy Mặt Trời), và cũng chưa từng tham gia vào Phong trào Đấu tranh Đô thị của Thanh niên Sinh viên Học sinh để chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn mà chính cuốn sách của Hoàng Tá Thích và bài viết của Bửu Chỉ vừa nhắc đến ở trên đã có nhiều tiết lộ. Mặt khác, trong bài viết “Có Nghe Ra Điều Gì” Trịnh Công Sơn gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973 có đoạn như sau: “…Chưa bao giờ tôi có ý nghĩ tự đề nghị với mình một trách nhiệm quá lớn, nhưng khi đã lỡ nhận chịu những cảm tình nồng hậu từ đám đông, thì những tình cảm kia phải được đền bồi…”. Và trong thư TCS gửi cho Ngô Kha - người bạn cùng chí hướng chính trị và cũng là người em rể, đồng thời là lãnh tụ của Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức này đã bị Công An Huế bắt (1972-1974) - chúng ta sẽ dễ nhận ra ý thức làm chính trị chống chế độ Sài Gòn của Trịnh Công Sơn. Nhất là trong đoạn Lê Khắc Cầm nói về mối quan hệ giữa TCS và tổ chức cơ sở thành uỷ Huế do Lê Khắc Cầm bí mật phụ trách trước 1975 như thế nào, thì không thể nói là TCS không có toan tính chính trị như nhận định của hoạ sĩ Bửu Chỉ (Xin xem thêm Thư TCS gửi Ngô Kha và đoạn trao đổi về lá thư này giữa Nguyễn Đắc Xuân và Lê Khắc Cầm trong phần tư liệu đính kèm bài).

congheradieugi_thumb

(Thủ bút Trịnh Công Sơn trong bài “Có Nghe Ra Điều Gì” gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973.)

Trước khi nêu thêm những dẫn cứ quan trọng hơn để chúng ta có cái nhìn rõ hơn về thái độ chính trị của TCS thời chiến tranh VN, và cũng nhằm cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS, tác giả xin kể một kỷ niệm với Ngô Kha và vì sao Ngô Kha lấy tên cho lực lượng đấu tranh của mình là Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức.

Vào năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu lòng của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi bô từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi: “Cậu vào chiến khu với mình đi, có người dẫn đường đang chờ”. Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt. Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Phòng vì được Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ (Sau 1975 tôi mới biết ông Nguyễn Văn Quyện, kiến trúc sư, Giám đốc Nha Mỹ Thuật Học Vụ, người ký quyết định không cho tôi đi Mỹ và trả tôi lại quân đội theo đề nghị của hoạ sĩ Vĩnh Phối - Hiệu trưởng Trường CĐMT Huế, cả 2 đều là Việt cộng nằm vùng), và Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn, cũng mang cấp bậc thiếu uý Quân lực VNCH có tư tưởng phản chiến, nhưng tôi không biết gì về hoạt động ly khai của anh cho tới lúc này. Thật bất ngờ và căng thẳng, làm sao tôi có thể đi về phía bên kia chiến tuyến? Tôi không hề tham gia vào phong trào phản chiến, tôi chơi với Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đinh Cường khi họ chưa là người chống lại chế độ Việt Nam Công Hoà. Ngay cả tại “túp lều cỏ” Tuyệt Tình Cốc ở Huế, nơi mà nhà văn Thế Uyên trong một bài viết của anh có tên “Cuộc Hành Trình Làm Người Việt Nam Qua Trịnh Công Sơn” đã tự bạch anh từng đến dự những cuộc họp bàn về đấu tranh chính trị do nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đứng ra tổ chức, tôi cũng chưa bao giờ đặt chân đến đó và thậm chí không hề biết có những việc như thế. Đơn giản vì tôi rời Huế vào sống ở Sài Gòn sau khi tốt nghiệp Mỹ thuật năm 1962, mối quan hệ giữa tôi và họ chỉ là một tình bạn văn nghệ thuần tuý. Để thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên này cầu Kiệu và nói với anh:”Ông thấy con mình vừa đầy năm, bà xã còn quá trẻ và yếu đuối, làm sao mình bỏ nhà đi vào căn cứ với bạn được. Hơn nữa mình không đồng ý cách giết người của họ ở Huế hôm Tết Mậu Thân… thôi chúc bạn lên đường may mắn!”. Thế nhưng, sự việc sau đó lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm.

Về Nguyễn Đại Thức là ai mà Ngô Kha dùng đặt tên cho lực lượng đấu tranh của mình?

Theo Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đại Thức nguyên là một hạ sĩ quan quân lực VNCH ly khai đã bắn hụt tướng Huỳnh Văn Cao khi ông dùng trực thăng kiểm soát tình hình Phật giáo xuống đường ở Đà Nẵng và Huế, và đã bị lính Mỹ bắn hạ. Hành động và cái chết của Nguyễn Đại Thức đã đưa Ngô Kha đến sự chọn lựa Nguyễn Đại Thức là tên và biểu tượng cho nhóm quân nhân ly khai đấu tranh chống Mỹ Nguỵ do anh tổ chức. Sau đây là đoạn viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Căn Nhà Của Những Gã LangThang: “…Theo tin tức quân báo của Kha nhận từ đoạn Đà Nẵng, thì lực lượng thuỷ quân lục chiến của Kỳ sẽ chĩa mũi nhọn vào những người của phong trào mà họ cho là nguy hiểm, ngay từ lúc họ đặt chân đến Huế để tránh hậu hoạ. Ngô Kha cùng đi với chiến đoàn ly khai của anh sẽ kéo dài cuộc cầm cự trên đèo Hải Vân, để tạo điều kiện cho tôi thoát…”. Đối với cá nhân tôi, nhờ tiết lộ kinh khủng này của Hoàng Phủ Ngọc Tường, những năm gần đây, tôi mới biết mình đã từng bị Ngô Kha dùng tình bạn để đưa vào cái gọi là Chiến đoàn ly khai Nguyễn Đại Thức mà không biết khi anh rủ tôi đi vào cứ như đã nói ở trên. May mà tôi đã từ chối.

Với bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn còn hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ tình cảm hồn nhiên hay hoa mỹ hơn, đấy là ý thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đòi hoà bình đậm tính nhân bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như TCS, thì chi tiết sau đây đã được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đã xác nhận lại với tác giả bài viết này như sau: “Vào đêm ngày 29-5-1966, trên đường Trần Bình Trọng-Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo), Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đã chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự chọn lựa rất quyết đoán và hợp ý với 3 bạn đồng hành với mình: “Không có con đường nào khác cho anh em mình ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam!”.
Vậy là đã quá rõ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!

Từ Chính Trị Phong Trào đến Chính Trị Cầm Quyền?

Vỡ mộng chính trị cầm quyền

Những ngày trước 30-4-75, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Người thân cộng thì hí hửng, người quốc gia thì lo âu và tìm đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà TCS để tìm một thông tin tốt lành vì anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được gì vì TCS từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu-Kỳ, em trai TCS là đại uý Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1). Thế là xong, TCS sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn Văn Thiệu để thương lượng hoà bình với quân GP đang bao vây Sài Gòn và doạ sẽ tắm máu Sài Gòn nếu VNCH không buông súng.

Thế nhưng, TCS và người em không có tên trong thành phần chính phủ Dương Văn Minh khi các hệ thống thông tin quốc gia công bố ngày 27-4-75 và cũng không có tên kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống trong vai đệ nhất Phó Thủ Tướng - người bạn chính trị không lộ diện của TCS từ trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, một cố vấn chính trị, một công trình sư cho sự nghiệp chính trị của TCS, đã vận động cho TCS vào chính phủ này như là đại diện của phe Phật giáo. Và với kết quả này, nhà hoạt đầu chính trị trẻ tuổi Nguyễn Hữu Đống đã phải rời khỏi nhà TCS ngay sau đó, sau khi đã ăn ở trong nhà TCS nhiều tháng trước như một người em rể.
Sau này, trong thời Lý Quí Chung còn sống, tôi có hỏi về sự việc này. Với tư cách là một Bộ trưởng Thông Tin và người rất thân cận với tướng Dương Văn Minh, Lý Quí Chung đã xác nhận: không hề có một đề cử nào cho TCS và Nguyễn Hữu Đống vào chính phủ Dương Văn Minh cả. TCS và gia đình đã bị Nguyễn Hữu Đống lừa rồi! Và từ đó TCS đã coi Nguyễn Hữu Đống là kẻ ghê tởm.

Một chút về Nguyễn Hữu Đống

Nguyễn Hữu Đống tốt nghiệp thủ khoa Trường Kiến Trúc Sài Gòn khoảng năm 1964 nhưng không hành nghề kiến trúc sư, bắt đầu chơi thân công khai với Trịnh Công Sơn vào khoảng 1970. Tôi không được biết gì nhiều về nhân vật này ngoài việc chứng kiến sự xuất hiện thường xuyên trong nhà TCS những tháng trước 4/1975 với tư cách em rể TCS, giữa lúc Sài Gòn liên tiếp nhận những thông tin về các tỉnh Tây Nguyên thất thủ, và cũng được biết từ TCS vào những ngày cuối của tháng 4/1975 là: chính quyền mới sẽ vẫn giữ nguyên chiếc ghế Đệ nhất Phó Thủ Tướng của chính phủ đầu hàng Dương Văn Minh (tức ghế của Nguyễn Hữu Đống). Sau đó, Nguyễn Hữu Đống đã vượt biên và định cư ở Pháp.

Thế nhưng, vào khoảng năm 1992, Nguyễn Hữu Đống về Sài Gòn và tìm thăm tôi. Tôi tiếp anh tại nhà và cùng ăn trưa. Thật ra, giữa tôi và Nguyễn Hữu Đống không đủ thân để anh tìm thăm, chẳng qua là chỗ để anh trút hết những gì TCS và gia đình không tiếp khi anh tìm đến thăm họ sau hằng chục năm ly gián từ ngày ấy. Trong những thổ lộ của Nguyễn Hữu Đống có 2 chi tiết đáng chú ý: Một là: Ý tưởng và mô hình kiến trúc Ngôi Đền Tình Yêu có hình quả trứng (lấy từ truyền thuyết Âu Cơ đẻ ra 100 trứng) để TCS chủ trì như một giáo đường là của Nguyễn Hữu Đống; Hai là: để Ngôi Đền Tình Yêu này mang đậm sắc thái TCS, Nguyễn Hữu Đống lập ý cho TCS viết Kinh Việt Nam. Dự án này tôi đã được TCS cho biết trước năm 1975 và sẽ xây dựng trên ngọn đồi của Bác sĩ Bùi Kiện Tín ở Thủ Đức, nằm đối diện với nghĩa trang quân đội Sài Gòn cũ. Xét về mặt tài năng kiến trúc và con người đầy tham vọng làm chính trị của Nguyễn Hữu Đống cũng như mối quan hệ mang tính chính trị giữa anh và TCS thì thông tin này đáng tin hơn là gần đây có nghe dư luận từ Phạm Văn Hạng là dự án này của Phạm Văn Hạng và TCS được ông Võ Văn Kiệt ủng hộ?

(Để biết thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa TCS và Nguyễn Hữu Đống, xin độc giả đọc thêm đoạn trích dẫn trong phần ghi chú cuối bài viết này, câu Lê Khắc Cầm trả lời phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân về TCS).

Bài Học Lớn Cho Người Làm Chính Trị Tự Phát Trong Xã Hội CSVN

Những Gáo Nước Lạnh Ngày “anh em ta về”

Tuy nhiên, sau sự thất bại ấy, TCS lại đứng lên vui mừng vì Sài Gòn của anh trong ngày 30-4-75 đã xuất hiện: “Cờ bay trăm ngọn cờ bay” và“anh em ta về mừng như bão cát quay cuồng…”. Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh Sài Gòn để hát bài Nối Vòng Tay Lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS, tác giả của ca khúc có tính dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía VNCH, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: "Mày có tư cách gì mà hát ở đây!”…

Bị bất ngờ với cú ra đòn khá tàn nhẫn này của người “anh em”, TCS thật sự choáng váng và sợ hãi, mọi niềm hân hoan trong anh về giấc mơ hoà bình cho đất nước của mình nay đã thành hiện thực bỗng chốc tan thành mây khói. Niềm vui tưng bừng reo ca “…Mặt đất bao la / anh em ta về / Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng/ Bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…” (Nối Vòng Tay Lớn) hôm ấy không thuộc về TCS, và thay vào đó là nỗi ám ảnh sắp bị thủ tiêu và phải làm thế nào chạy trốn khỏi “người anh em” càng sớm càng tốt.

Thật ra, tai nạn chính trị này đã có nguồn gốc từ quan điểm chính về tính hai mặt trong âm nhạc và con người TCS của Ban Văn Hoá Tư Tưởng-Trung Ương Cục Miền Nam do Ông Trần Bạch Đằng phụ trách. Chính nhạc sĩ Trần Long Ẩn đã kể lại rằng đã có một cuộc họp kiểm điểm TCS trong Cứ trước 1975 với thành phần tham dự gồm có hầu hết các văn nghệ sĩ thoát ly theo MTGPMN như: Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… dưới sự chủ trì của ông Trần Bạch Đằng.

Và Cuộc Chạy Trốn Khỏi Sài Gòn

Sự sợ hãi càng tăng cao khi TCS nhận được tin mình sẽ bị thanh toán. Chỉ vài ngày sau, TCS đã âm thầm cùng mẹ rời khỏi Sài Gòn bằng xe đò, trực chỉ ra Huế, nơi anh cũng đang có những "người anh em” thân thiết cũ vừa chiến thắng trở về như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Ngọc San,… hy vọng chắc được yên thân.

Trở lại sống trong căn hộ cũ 11 Nguyễn Trường Tộ - Huế, TCS quây quần với bạn bè cũ và mới không được bao lâu thì cả thành phố Huế lên cơn sốt đả đảo TCS và Phạm Duy. Các biểu ngữ được giăng ở các trường đại học và TCS phải lên Đài truyền hình Huế đọc bài tự kiểm điểm. Sự cố lần này cũng lại do một nhạc sĩ tổ chức, nhạc sĩ Trần Hoàn, Giám đốc Sở VH&TT tỉnh Bình Trị Thiên. Thế là TCS đã tránh được vỏ dưa SG nay lại găp vỏ dừa Huế! Sự bé cái lầm lần này, có lẽ do TCS đã kỳ vọng ở bạn mình quá nhiều nhưng thực tế vai trò trong lực lượng tiếp quản Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân rất khiêm tốn, chính họ cũng đang phải cố gắng phấn đấu để được kết nạp vào đảng thì làm sao bao che cho tác giả của 2 ca khúc từng bị người CSVN kết án (Ca khúc Gia Tài Của Mẹ với câu: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” đã xúc phạm đến đại cuộc chống Mỹ cứu nước của người CSVN và ca khúc Cho Một Người Nằm Xuống để thương tiếc Lưu Kim Cương - đại tá không lực VNCH chết bởi đạn của quân GPMN - người bạn một thời đã từng dùng máy bay không quân đưa TCS lên Đà Lạt thăm Khánh Ly hoặc ngược lại, đón Khánh Ly về hát với TCS) tại Sài Gòn?

Lần này ở Huế, tính tẩy chay TCS nghiêm trọng và công khai hơn hẳn vụ ở Đài Phát Thanh SG vừa qua. Tình bạn cũ trong trái tim TCS sụp đổ đã đành mà giấc mơ “Khi đất nước tôi thanh bình/Tôi sẽ đi thăm…” tưởng dễ thực hiện của anh cũng bị dập tắt. Những tháng ngày tiếp theo ở Huế, TCS sống như một con tin trong Hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên, thường xuyên được tổ chức bố trí đi lao động thực tế trên những cánh đồng vào mùa khô cũng như mùa lụt, không hơn gì một người phải chịu cải tạo.

Cuộc Chạy Trốn Lần Thứ 2

Tuy nhiên, đang kẹt trong cái thế “tiến thoái lưỡng nan” này ở tại chính quê nhà, nơi mình từng tham gia hoạt động đấu tranh chống Diệm rồi chống Mỹ-Thiệu trong Phong Trào Đô Thị Huế với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ng K, Nguyễn Đắc Xuân,… cũng không xong mà về lại Sài Gòn thì càng nguy hiểm thì một vị cứu tinh kịp xuất hiện, ông Võ Văn Kiệt - nhà lãnh đạo công sản cao cấp tiếp quản Sài Gòn lúc bấy giờ. Một cuộc vượt biên nội địa đưa TCS vào lại Sài Gòn sau khoảng 1 năm anh phải “đi thực tế” tại các vùng quê tỉnh Bình Trị Thiên được bí mật tổ chức do ông Kiệt uỷ thác cho nhà văn cộng sản Nguyễn Quang Sáng thực hiện thành công. Từ đây, dưới sự ưu ái của ông Kiệt và nhà văn Nguyễn Quang Sáng được uỷ nhiệm của thượng cấp chăm sóc TCS, cái hạn bị hăm doạ hay trù dập với người nhạc sĩ lãng mạn cách mạng này đã kết thúc.
Qua những “sự cố” như thế, có thể thấy TCS đã mắc những sai lầm với người CS như sau:

- Thiếu minh bạch trong suy nghĩ về chiến tranh VN và tính hai mặt trong quan hệ xã hội.
- Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lãnh đạo của tổ chức đó.
- Không dám thoát ly đi theo MTGPMN.

Và những sai lầm của TCS với phía VNCH:

- Kêu gọi phản chiến nhưng chỉ nhằm vào phía VNCH.
- Thiên về phía người CSVN ngay cả sau khi bị họ giết hụt trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế.
- Chống lại phía đã tạo cho mình điều kiện học hành và tự do sáng tác, kể cả tự do tư tưởng dù có bị chế độ SG hạn chế và kiểm duyệt, nhưng không quyết liệt tiêu diệt như đã được thổi phồng (dùng giấy của Hoàng Đức Nhã cấp để đi đường do Phùng Thị Hạnh trung gian, nhiều sĩ quan VNCH che dấu,…) để có một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tồn tại lừng lẫy như thế cho đến ngày 30-4-75. Dù ý thức chính trị ra sao, Trịnh Công Sơn vẫn là sản phẩm của chế độ VNCH đúng như Đặng Tiến đã nhận định trong một bài viết ở đâu đó mà tôi không còn nhớ tên.

Bước Ngoặt “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”

Sa Lầy vào Rượu và Xu Nịnh

Cuối tháng 5-1978, tôi ra khỏi trại cải tạo, gặp lại TCS. Lần nào đến nhà anh ở 47c Phạm Ngọc Thạch-Sài Gòn, sáng hay chiều, cũng thấy TCS ngồi nhậu rượu Ararat, một loại cô-nhắc Nga (sau “đổi mới” chuyển qua rượu chát đỏ của Pháp, và sau cùng là Whisky Chivas) với Nguyễn Quang Sáng và một số bạn “mới”. Tôi cảm thấy có một điều gì đó không ổn, hình như tôi, một thằng sĩ quan Nguỵ đi tù về, không còn được TCS và gia đình coi là người thân như ngày xưa. Thái độ khó chịu của tôi mỗi lần ngồi trước mặt những người bạn “mới” này của Sơn đã khiến tôi bị TCS và gia đình tẩy chay ngầm.

hchup272 Thực ra, tôi đã bị TCS và nhóm bạn Huế cũ loại ra từ những năm tháng tôi đi lính VNCH mà tôi không hề biết. Sau này, hoạ sĩ Tôn Thất Văn (đã chết) đã kể lại cho tôi rằng có những cuộc họp ở Huế vào những năm 60-70, TCS và những người mà tôi đã coi là bạn thân tình đã đem tôi ra để phê phán, tẩy chay vì tôi đã không trốn lính và đứng về phía Quốc Gia. Rất tiếc, trong số này lại có cả Đinh Cường, người đã từng học cùng trường mỹ thuật, ở cùng nhà, và do tôi giới thiệu làm quen với TCS, do tôi kết nối với anh bạn Thọ giàu có ở Đà Lạt để có những tháng ngày cùng TCS rong chơi thơ mộng khi lưu lại căn phòng anh Thọ đã thuê cho tôi tại biệt thự số 9 đường Hoa Hồng hay ở trong căn nhà sàn gỗ thơ mộng bên một dòng suối róc rách trong một hóc núi của thị trấn Đơn Dương từ trước khi tôi rời Đà Lạt về Sài Gòn năm 1964 theo giấy gọi vào quân trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức khoá 19. Và cả những tháng ngày nhàn nhã làm sinh viên sĩ quan tại đây vào năm 66 hay 67, lúc này tôi là sĩ quan huấn luyện CTCT và phụ trách một phần nguyệt san “Bộ Binh”. Sau ngày 30-4-75, với cấp bậc Trung uý ngành Công binh VNCH, Đinh Cường trở lại Trường Mỹ Thuật Huế và được miễn đi học tập cải tạo nhờ vào việc đã tham gia các hoạt động đấu tranh chống VNCH của nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, TCS,.., nhiều năm trước. (Trong hình: Thủ bút bài hát Cuối cùng cho một tình yêu, thơ Trịnh Cung do Trịnh Công Sơn phổ nhạc)

Có một kỷ niệm đặc biệt với Đinh Cường mà tôi cũng muốn nói ra luôn sau bao nhiêu năm cố giữ chặt trong lòng, để lòng mình thôi nặng trĩu và cũng minh chứng cho một tình bạn không hề có thật mà anh ấy đã dành cho tôi, mà tôi đã hằng chục năm cố nghĩ khác đi, cố không tin. Sự việc xảy ra như thế này: Ngày 1-5-75, 8g sáng tôi đến nhà Đinh Cường ở đường Nguyễn Đình Chiểu cũ, gần chợ Tân Định để xem tình hình như thế nào. Như thường lệ tôi vẫn đến đây dễ dàng như người trong nhà nên rất tự nhiên bước lên cầu thang dẫn lên căn gác của bạn mình. Thế nhưng chị TN, vợ Đinh Cường đã chặn tôi lại ở giữa cầu thang và nói Đinh Cường đi khỏi rồi. Tôi không tin và nói lớn là có hẹn trước, lúc đó Đinh Cường mới nói vọng xuống để tôi lên. Khi lên tới nơi thì đã có mặt của Bác sĩ Trương Thìn, Nhạc sĩ Miên Đức Thắng cùng ngồi đó. Tôi gượng gạo ngồi xuống và Đinh Cường nói với 2 vị khách kia như hỏi ý: “Mình cấp cho TC cái giấy chứng nhận thuộc Thành Phần Thứ 3 nhé!”. Lập tức tôi đứng lên và từ chối: “Không, hãy để tôi chịu trách nhiệm với họ, và Thành Phần Thứ 3, Thứ 4 gì họ cũng dẹp sạch thôi!”…

Với TCS, gia đình cùng các “đồng chí” rượu của anh, tôi lúc này là một kẻ xa lạ, một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu, một con kỳ đà làm cho cuộc vui hoan lạc của họ không được hoàn hảo, tôi nên biến đi. Nhưng tôi lại là một gã ngoan cố, tự cho mình nhiệm vụ phải ngồi lại để làm Sơn tỉnh táo hơn, để những tiếng nói bớt đi những lời xu nịnh. Ý thức được rượu, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuý tổng hợp đang nhấn chìm TCS được nguỵ danh dưới khẩu hiệu “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” nên tôi cố chiụ đựng sự khó chịu của họ và vẫn không tìm cách lấy lại chỗ đứng thân thiết vốn có với TCS thủa còn trai trẻ ở Huế bằng rượu chè, quà cáp đắt tiền và những tán tụng nuông chìu. Tôi vẫn đứng trên đôi chân liêm sỉ và theo đuổi một thứ nghệ thuật tri thức, đó là chỗ mà TCS, trong thâm sâu của tâm hồn anh, không thể loại bỏ tôi cho dù có khác nhau về quan điểm chính trị và cách sống. Đó cũng là điều mà TCS trong những lúc cô đơn nhất đã đến gõ cửa nhà tôi bất kể đêm khuya hay khi bình minh vừa ló dạng để hàn huyên hoặc khoe và hỏi ý kiến tôi về bức tranh mà anh vừa vẽ.

Điều Đáng Tiếc

Trong thời buổi sống như một kẻ bên lề của một Sài Gòn đã bị đổi tên và những người bạn thân một thời hồn nhiên như thế nay cũng đã cúi mình, ngoan ngoãn làm những con rối của chế độ mới, quay lưng lại với thân phận khốn đốn của đồng loại, tự huỷ tri thức, lương tâm, thứ một thời nhờ nó đã làm nên những ca khúc tranh đấu cho thân phận và tự do con người, nay chọn cho mình con đường sa lầy vào rượu, thuốc và phụ nữ, tôi thấy mình thật sự cô độc và bất lực trước sự sụp đổ từng ngày của một người bạn tài hoa nhất mà tôi từng yêu quí. Nhiều khi tôi muốn nói với bạn mình: “Tại sao cậu lại sa đà vào những cuộc chơi phù phiếm? Tại sao cậu không viết những ca khúc cho thân phận VN 2 đang bị một thứ xiềng xích vô hình nhưng vĩnh cửu, vì nó được khoá bởi chính người VN chứ không phải ngoại bang? Hay ít ra thì cậu nên sống yên lặng như một cái bóng, một hòn đá tảng vì cái giấc mơ hoà bình, thống nhất quê hương của cậu dù không phải nguyên nhân chính gây ra sự sụp đổ hoàn toàn nền Cộng Hoà trẻ tuổi MNVN, nhưng về mặt tâm lý cũng đã ít nhiều làm lợi cho phía bên kia, vô tình đồng loã với kẻ đã gây ra cái bi kịch thảm khốc cho hằng triệu người Việt từng ái mộ, tôn thờ cậu nay phải bỏ nước ra đi bằng giá của cái chết không được chôn cất, bằng sự tật nguyền tinh thần, nếu may mắn đến được bờ tự do thì bạn cũng đáng được cảm thông… Vì tôi biết chắc chắn một điều là tất cả những trí thức thiên tả VN như cậu cũng đều không chờ đợi một kết cuộc cho đất nước theo cách như đang diễn ra…”. Nhưng có lẽ trực giác của tôi đã mách bảo rằng điều ấy nằm ngoài khả năng của TCS, cứ để cuộc sống của anh phụ thuộc vào bản năng, đã tiêu vong rồi một TCS mạnh mẽ dấn thân, mạnh mẽ ca hát cho hoà bình đất nước, cho dân tộc ấm no, bình đẳng, tự do và hạnh phúc như ngày nào. Thời cuộc làm ra TCS đấy thôi, anh không phải là người làm ra thời cuộc, nên tôi đã nghẹn họng.

Ảo Tưởng Cuối Cùng

Dần dà rồi TCS cũng tìm lại cho mình một phần phong độ sáng tác nhờ hấp thụ những ngọn lửa nhỏ từ những nhan sắc phụ nữ và sự trân trọng (theo chủ trương) của những nhạc sĩ thuộc Hội Âm Nhạc TP HCM như Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Thanh Tùng, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… và một nhóm nhạc do họ tổ chức có tên “Những Người Bạn” ra đời khoảng thập niên 90, và TCS được coi là đầu đàn. Anh trở thành nhân tố quan trọng nhất trong việc thu hút sự chú ý của công chúng mỗi khi anh có mặt trong các show diễn của nhóm. TCS cũng là một tiếng nói có trọng lượng nhất đối với nhiều tên tuổi hàng đầu của nhạc cách mạng VN như Văn Cao, Trọng Bằng, Hồng Đăng,… trừ ông nhạc sĩ Bộ Trưởng Bộ VH&TT Trần Hoàn (đã nghĩ hưu), người từng mở chiến dịch đả đảo anh một thời ở Huế, là vẫn tiếp tục nhìn TCS như một kẻ xấu.

Dù gì thì thế đứng chính trị của TCS cũng đã được tốt hơn trước rất nhiều, có phải vì thế mà anh đã chủ quan nghĩ mình là người đến lúc nên đứng vào hàng ngũ của đảng?

Sơn đem ý định này nói với tôi, tôi liền can:“Không nên Sơn ơi, cậu đang là một nhân vật âm nhạc lớn, người ta nể trọng vì ảnh hưởng của cậu đối với công chúng rất lớn cũng như quốc tế. Nay cậu trở thành đảng viên mới tò te còn ai coi trọng nữa. Nếu ông Hoàng Hiệp chống lai là may cho cậu lắm đó!”. Tôi đã nói với TCS như thế và TCS im lặng. Tuy nhiên không phải nhờ sự phân tích ấy mà TCS không trở thành đảng viên Đảng CSVN, mà bởi sự ngăn cản của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, người giữ vai trò chính trị của Hội Âm Nhạc TP HCM và cũng là cán bộ có trách nhiệm quản lý TCS. Trong một lần bất bình vời Hoàng Hiệp về việc bị kiểm điểm, TCS đã chửi thẳng vào mặt Hoàng Hiệp ngay tại trụ sở Hội Âm Nhạc TP HCM: "Mày là thằng mặt lồn!".

Đã không những không được vào đảng, TCS còn được cho về hưu để vĩnh viễn kết thúc giấc mơ - ảo tưởng cuối cùng của anh.

Cái Chết - Vinh Quang Đích Thực

Nếu con đường chính trị đối với TCS là một con đường dẫn anh xuống vực thẳm thì cái chết là một kết thúc hoàn hảo. Hay nói một cách khác, nó đã giải cứu và trả lại vinh quang đích thực cho anh - vinh quang dành cho di sản ca khúc TCS.

Không chỉ niềm vinh quang này bừng sáng huy hoàng bởi hàng chục ngàn người yêu âm nhạc của anh ở trong nước tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, mà người Việt trên khắp thế giới cũng nhỏ lệ tiếc thương, nhất là người Việt ở Mỹ, nơi mà Trịnh Công Sơn lúc sinh tiền không dám đặt chân đến dù không ít lời mời. Một lễ tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội trường báo Người Việt với sự tham dự đông đảo của nhiều giới khác nhau trong cộng đồng ở cả Nam và Bắc California ngay trong đêm 1-4-2001, điều mà trước đó không ai dám nói công khai về tình cảm của mình với TCS ở chỗ đông người tại Mỹ.

Lời Kết

Sau 8 năm Trịnh Công Sơn ra đi, mọi cảm xúc thương tiếc sau cái chết của anh trong mỗi chúng ta cũng đã phần nào chìm lắng, hôm nay, tôi quyết định và chọn lựa thời điểm này để viết về một góc khác, một phương diện khác của Trịnh Công Sơn mà chưa ai viết hoặc viết một cách có hệ thống.

Bài viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát tình cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn có của tôi, vì một số những nhân vật được đề cập nay đang còn hiện diện trong cuộc đời. Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá.

Đó là về phần cá nhân tôi, còn đối với TCS, bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào điều tốt đẹp của sự thật. Nó có thể sẽ làm tan đi hình ảnh một TCS được tô vẽ bởi những huyền thoại và ảo ảnh lấp lánh trong lòng ai đó, nhưng sẽ trả lại một TCS thiên tài đích thực của âm nhạc như nó vốn có, để mọi người nếu đến với nhạc Sơn thì sẽ có được cơ may yêu mến trọn vẹn một con người có thực, chứ không phải một thứ tượng đài được nhào nặn, tô vẽ và dựng lên vì một mục đích riêng. Đã đến lúc sự thật đó cần được trả lại cho những người Việt đã, đang và sẽ mãi còn coi nhạc Trịnh là lẽ sống của mình, mang nó theo mình như một thứ tài sản vô giá dù đi đến bất kỳ đâu, dù ở chiến tuyến nào.

Tất nhiên, những lập luận và lời kể trong bài viết này dựa vào những gì tôi đã trải qua, những tư liệu riêng và những tư liệu của những người bạn cũ của TCS mà họ đã công khai phổ biến trên các phương tiện truyền thông, và vì thế chắc chắn còn thiếu sót tất yếu, vì tôi biết còn nhiều sự thật đang được cất dấu bởi những người có quan hệ cận kề với TCS trong từng giai đoạn của lịch sử VN từ 1954 đến hôm trước khi TCS qua đời mà họ vì những lý do nào đó chưa tiện nói ra. Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện.

Sau cùng, mỗi con người Việt Nam đã trải qua và sống sót sau cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua đều giữ trong mình những sự thật riêng, một gốc nhân chứng riêng, xin quí vị hãy trả lại nó cho lịch sử, nếu được như thế thì tấm gương lịch sử VN mới trong sáng được. Cũng vì điều này, cho tôi xin lỗi những gì mà bài viết có làm tổn thương đến một ai đó cũng là vì không còn sự lựa chọn nào khác.

Sài Gòn 29/3/2009
TRỊNH CUNG

hchup270

Tư liệu tham khảo:
1. Như Những Dòng Sông, Hoàng Tá Thích, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ 2007.
2. Trịnh Công Sơn, Cuộc đời, Âm nhạc, Thơ , Hội hoạ & Suy tưởng, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn, 2005.
3. Thư TCS gửi Ngô Kha, nguồn: http://www.gio-o.com
4. Sự thực Thư Gửi Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, phần phỏng vấn Lê Khắc Cầm, nguồn: http://www.gio-o.com
5. Có nghe ra điều gì, Thủ bút của TCS nói về trách nhiệm của mình với đám đông (Tư liệu của Bác sĩ, nhà văn Thân Trọng Minh - Lữ Kiều).
6. Source: http://damau.org/archives/5055

Bài liên quan:
Bi kịch Trịnh Công Sơn

Thứ Tư, 24 tháng 6, 2009

Ông già ham vui & font thư pháp Việt

Ngày 21 tháng 6 vừa rồi, PV Tôn Gia Quyền có gọi điện cho mình bảo rằng, bài viết về chú trên số báo Xuân Khoa Học Phổ Thông 2009 vừa rồi đoạt giải báo chí năm nay chú ạ. Tuy người ta đoạt giải, nhưng mình cũng được mừng ké, do vậy mà post lên đây làm kỷ niệm, chứ mai mốt tờ báo thất lạc rồi thì chẳng biết tìm đâu. Do vậy nên mới có cái entry này.

Ông già ham vui & font thư pháp Việt

Hiện nay, không cần phải khéo tay, càng không biết gì về cách viết chữ thư pháp, người dùng máy tính vẫn có thể tạo ra những nét chữ thư pháp trông khá đẹp, y như chữ thư pháp viết tay. Thực tế, những nét chữ thư pháp tạo ra bằng bàn phím đã xuất hiện trên các bảng quảng cáo ngoài trời, báo chí, truyền hình, lịch, bao bì... trong khoảng 5 năm gần đây. Tuy nhiên, với thói quen cố hữu đến cực đoan của đa số người dùng máy tính, ít quan tâm đến tác giả hoặc hãng sản xuất ra phần mềm, nên chẳng ai để ý đến người “cha đẻ” của những font thư pháp đang dùng, càng không một lời cảm ơn khi mà niềm vui và giá trị do chính font thư pháp mang lại cho họ không phải là nhỏ.

hl1

Ông họa sĩ vẽ... font chữ

Mở cánh cửa sắt đón tôi là người đàn ông đã ngoài 50 với nụ cười híp mắt trên khuôn mặt đã bắt đầu xuất hiện những nếp nhăn sau chiếc mắt kiếng. Qua những lần nói chuyện điện thoại đường dài, rồi những câu chữ ngắn gọn trên blog (mạng xã hội), đến những bài viết nhật ký và hình vẽ phác họa của ông trên mạng Internet, tôi đã phần nào cảm nhận được tính khôi hài nơi ông. Nhưng đến nay, tôi mới thật sự cảm nhận cái tính “ngoan đồng” của họa sĩ Nguyễn Hùng Lân, chẳng khác những gì mà ông đã thể hiện qua tranh vẽ và lời thoại trong truyện tranh của ông. Trên mạng Internet, ông còn tự nhận mình là “ông già ham vui”.

Hùng Lân, cái tên không xa lạ gì đối với cư dân mạng. Nhưng... bất ngờ thay, qua buổi trò chuyện thân mật trong căn nhà cấp 4 nằm khép mình bên con đường đẹp nhất thị trấn Ngãi Giao (tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu), tôi mới biết được, Nguyễn Hùng Lân, tác giả của các font thư pháp và hơn 20 font chữ nghệ thuật khác cũng chính là “cha đẻ” của những bộ truyện tranh nổi tiếng mà tôi đã từng đọc.

Sau khi bỏ chiếc máy tính cũ đã mua hồi năm 1997, ông sắm chiếc máy tính mới và bắt đầu mày mò tìm cách khai thác các ứng dụng trên máy tính, mang công nghệ vào công việc vẽ truyện tranh hàng ngày, cốt để cho truyện đẹp và sống động hơn. Đến năm 2002, ông đã tạo ra font chữ đầu tiên, đặt tên VNI-Comic, bỏ dấu chữ Việt theo bảng mã VNI và bắt đầu dùng vào việc viết lời thoại cho nhân vật. Kể từ đó, thay vì phải ngồi chắp từng nét viết tay ngang - dọc để tạo ra chữ in hoa cho lời thoại của nhân vật, ông dùng máy tính thiết kế khung trang và gõ sẵn lời thoại từ kịch bản vào, sau đó in ra và vẽ nhân vật tương ứng với lời thoại. Sử dụng cách này, ông tiết kiệm được khá nhiều giấy vẽ, mực và thời gian vì không phải bỏ đi mà vẽ lại khi viết sai, lem mực. Một thời gian sau, ông phát hiện các kiểu chữ thư pháp có nét rất đẹp nên đã nảy sinh ý nghĩ tạo một font chữ giống vậy để dùng trên máy tính.

hl2b Từ kinh nghiệm đã tích lũy được trong việc tạo font VNI-Comic, ông đã hoàn thành font thư pháp đầu tiên VNI-ThuPhap 1 chỉ trong một tuần. Ông đưa tay sửa lại mắt kiếng và kể: “Tôi xem và nghiên cứu nét chữ thư pháp của nhiều người, cắt và scan vào máy tính rồi dùng phần mềm chuyên dụng để chỉnh sửa nét của từng chữ theo cái gu thẩm mỹ của mình, đồng thời vẽ thêm các dấu tiếng Việt, mặc dù trước đó tôi không hề biết gì về cách viết chữ thư pháp”. Ngay sau đó, ông đưa font VNI-ThuPhap 1 lên một trang web miễn phí để ai cũng có thể tải về sử dụng và góp ý. Khoảng một tháng sau, một người thiết kế đã liên hệ với ông để xin phép dùng font chữ này vào các trang quảng cáo của họ trên báo. Vậy là trào lưu dùng font thư pháp nổi lên từ đó. Nhờ đưa lên website, font chữ thư pháp đã được một số Việt kiều ở nước ngoài chú ý và đặt vấn đề mua bản quyền kinh doanh. Ông kể: “Thoạt đầu, tôi ngạc nhiên và khẳng định: font tôi để miễn phí trên trang web, anh cứ tải về mà dùng. Tuy nhiên, họ không thích vậy vì các đối tác kinh doanh của họ khá khắt khe trong chuyện này. Vậy là tôi nhận lời bán cho họ nhưng bù lại phải bỏ đi một số thông tin về quyền sở hữu font, nhưng rất may là họ không cấm tôi phát hành miễn phí”.

Kể từ đó đến nay, ông đã thiết kế, bán và chỉnh sửa cho họ đến vài chục font chữ. Rõ ràng, chính phát hành miễn phí lại là hay và tăng thêm sức lan tỏa. Theo ông, nếu bán thì cũng chỉ bán được một vài lần, vì sau đó họ có thể cho người khác dùng. Ông tâm sự: “Khi thiết kế font chữ, tôi không đặt nặng vấn đề giá trị, chỉ mong làm sao khi in ra thì thật sắc nét, được nhiều người chọn dùng và nhanh chóng đến với cộng đồng. Nếu đạt được điều này thì đó là phần thưởng gấp nhiều lần giá trị tiền bạc. Thực tế, tôi thấy, đã có một số người thiết kế font vì mục đích thương mại nhưng họ vẫn không sống mãi được với nghề này, và đa số người dùng không biết đến sự có mặt của font chữ đó. Và ai cũng biết, thiết kế font không sinh lợi nên từ trước đến nay có rất ít font chữ tiếng Việt mới ra đời”.

Tuy nhiên, muốn phát hành miễn phí cũng không hề đơn giản. Đơn vị sở hữu bản quyền bảng mã VNI không cho phép ông dùng loại bảng mã này trong các font mới thiết kế nữa. Thế là ông lại hì hục đi tìm một bảng mã tiếng Việt khác. Ông hỏi TS. Nguyễn Văn Hiệp (Đại học bách khoa TP.HCM), xin dùng bảng mã BK-HCM 2. Vậy là từ đó, ông đổi tên các font chữ của mình sang tên gọi có tiền tố là HL (HLThuPhap1, HLThuPhap2...) và gõ chữ Việt có dấu theo bảng mã BK-HCM 2. Việc thiết kế font chữ không phải khó, ai cũng có thể tự tìm hiểu và làm được, nhưng có lẽ khó ở chỗ không có “con mắt thẩm mỹ” như ông Lân, một người không học chuyên ngành công nghệ thông tin, tiếp cận với máy tính từ những năm cuối của thập niên 1990 và không ngại học hỏi kiến thức về máy tính từ các cô cậu học sinh gần nhà.

Nhờ font chữ đẹp và phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người dùng Việt Nam, các font chữ thư pháp và các font chữ nghệ thuật của ông dần dần đã trở thành “nhu liệu” không thể thiếu đối với những người thiết kế và cả người dùng máy tính gia đình. “Trong một lần đem mẫu thiết kế thiệp cưới cho người con trai lớn đến một dịch vụ chuyên cắt chữ decal ở gần nhà, các nhân viên ở đó rất đỗi ngạc nhiên khi thấy trong thiệp cưới xuất hiện một số ký tự có nét cuối khá mềm mại. Tôi giải thích, các font chữ này là do tôi tự làm và đây là những ký tự được thiết kế thêm nên không thể tạo ra chúng bằng cách gõ thông thường, đồng thời thử ngay cho họ thấy. Họ mới vỡ lẽ và ồ lên, thế mà tụi cháu không biết, lên tận Sài Gòn để mua đĩa về cài, hóa ra tác giả của chúng lại nằm cạnh nhà...”, ông nhớ lại. Về sau, để ổn định trong việc lưu trữ các font chữ của mình trên mạng Internet và phục vụ số đông người dùng, ông đã lập website riêng và kêu gọi người dùng cá nhân ủng hộ 100.000 đồng, doanh nghiệp là 500.000 đồng khi dùng một font, nhưng tính đến nay danh sách những người thịnh tình chỉ khoảng 10 người.

Nghiệp và nghề

Xem truyện tranh của Nguyễn Hùng Lân, nhiều người cứ ngỡ ông là một họa sĩ cự phách được trui luyện từ Trường đại học mỹ thuật ra. Ấy vậy mà điểm xuất phát của ông họa sĩ “ngoan đồng” này lại là các môn toán, lý, hóa pha lẫn một chút đam mê hội họa từ năm học đệ tứ (tương đương với lớp 9 bây giờ). Đang học ở Trường đại học khoa học, đất nước giải phóng, ông đi làm công nhân rồi được đưa đi học lớp trung cấp mỹ thuật ở Đồng Nai. Đến năm 1987, tập truyện tranh đầu tay “Người đầu tiên lên Mặt trăng” dựa từ cốt truyện nước ngoài ra đời. Tiếp theo đó là hàng loạt bộ truyện tranh khác như Dũng sĩ Hesman, Siêu nhân Việt Nam, Cô Tiên Xanh và mới nhất là Thằng Bờm... cũng lần lượt đến với giới học sinh. Tính đến nay, sau 21 năm cầm cọ, số đầu truyện của ông đã xấp xỉ con số 700 với hơn 10 bộ truyện.

Nghề nào cũng vậy, tất cả đều có cái khổ, cái sướng và niềm vui riêng. Đối với những ngành nghề thuộc lĩnh vực văn hóa, niềm vui sướng lớn nhất là khi tác phẩm của mình được người xem, người đọc ái mộ và ủng hộ. “Nhớ hồi làm bộ truyện Dũng sĩ Hesman, cả nhà tập trung làm truyện tranh để duy trì cái ăn, cái mặc và lo cho các con học hành. Tôi thì viết kịch bản, ban đầu vẽ hoàn chỉnh, về sau vẽ nét chính và dạy cho các con vẽ các nét còn lại, còn bà xã thì tô màu cho nhân vật. Lúc đó, mỗi tuần phải làm xong một tập truyện cho nhà xuất bản. Hết nửa đầu tuần, nhân viên nhà xuất bản chạy từ TP.HCM xuống Bà Rịa - Vũng Tàu lấy nửa cuốn về in trước, đến cuối tuần lại chạy xuống lấy nửa cuốn còn lại. Mới đây, tôi ngồi nhẩm tính lại, đến khi kết thúc bộ truyện này, quãng đường anh nhân viên đó đi và về gấp mấy lần đi vòng quanh Trái đất! Mặc dù làm nhiều vậy nhưng số tiền thu được cũng chỉ đủ chi tiêu trong gia đình”, ông vừa nói và vừa lấy một số bộ truyện tranh trong tủ ra cho tôi xem.

Đến nay, các người con lớn của ông đã thành đạt và đang nối nghiệp mỹ thuật của cha mình ở nghề kiến trúc sư. Còn ông, dù đã bước sang tuổi ngũ tuần nhưng vẫn cùng vợ miệt mài đeo đuổi truyện tranh giáo dục cho thiếu niên với năng suất 2 tuần cho 1 tập truyện, đủ để chi tiêu cho các sinh hoạt trong gia đình mà chưa vội nhờ đến các con. Ông chia sẻ: “Mặc dù không làm việc cho người khác nhưng tôi vẫn tự ra cho mình một thời gian biểu và thực hiện triệt để, phải làm đến 6 ngày trong tuần thì mới kịp tiến độ, mỗi ngày làm không dưới 8 giờ”. Những lúc nghỉ ngơi, ông thường lấy chiếc xe cuộc ra và chạy vòng quanh con đường đầy cây xanh trước nhà, hoặc chơi đàn piano, sáng tác nhạc thánh ca, tình ca phục vụ trong sinh hoạt ở nhà thờ, và sáng tạo thêm các font chữ nghệ thuật rồi quyết giữ mãi “tâm hồn cao thượng” để đưa lên mạng cho người dùng tải về sử dụng miễn phí.

TÔN GIA QUYỀN (VÕ MINH TÂN)

Tháng Sáu và vị mặn của mưa

rainy Nếu tôi nhớ không lầm thì Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên có viết về tháng Sáu:

Tháng Sáu trời mưa, trời mưa không dứt,
Trời không mưa, anh cũng lạy trời mưa.

Ông lạy trời mưa để phong tỏa lối người yêu về, chẳng cho nàng về nữa. Ghê nhỉ? Nghe tình quá xá cỡ thợ mộc, nhưng đối với tôi, và cả gia đình tôi, tháng Sáu là tháng có nhiều dịp kỷ niệm nhất, mới đầu tháng là cái thằng Papillon khóc oe oe chào đời, rồi đến chị Hai, đến hai đứa con, đến hai đứa cháu, cứ đua nhau nhè cái tháng Sáu này mà đẻ, cho nên trong năm cứ chờ đến tháng Sáu là hay có dịp kỷ niệm lắm, mà mỗi lần có dịp như thế thì con cháu tụ về vui ơi là vui, cho dù sau đó con cháu lại đi buồn ơi là buồn... biết nói sao bây giờ?

Nhưng tháng Sáu cũng là tháng buồn nhất, vì đó là ngày giỗ thân phụ tôi. Cha tôi qua đời sớm lắm, lúc tôi mới 9 tuổi, thế mà nay tôi đã ngoài 50 rồi, hơn bốn mươi năm chẳng có cái nóc nhà mà dựa, người đời hiếp đáp cũng nhiều, mẹ con tôi cứ bươn chãi như thế mà lầm lũi vươn lên. Trong nhà có 3 anh em trai, anh tôi bảo, sợ nhất là chú L chắc không qua được năm tử của ba, vì thấy tôi ốm yếu, giải phóng xong lại làm việc nặng, người cứ lụi dần đi, sợ không thọ nổi, thế mà tôi đã vượt qua, trong lúc em trai út tôi lại khỏe như voi, bỗng dưng bị bệnh mà ra đi sớm, bằng với năm tử của cha tôi, cho dù chú nó bảo cố thêm vài tháng để vượt qua tuổi tử của cha tôi, thế mà vẫn không vượt qua nổi, và thế là trời lại mưa, lòng người lại mưa, khóc như mưa...

Tôi còn nhớ hôm cha tôi mất trời cũng mưa gào như thế, là một thằng bé con 9 tuổi thì nó cũng chưa cảm nhận sự mất mát sâu sắc lắm đâu, nhưng nó vẫn hiểu thế là từ nay cái cột chính trong nhà đã gãy gục rồi, cha tôi vừa tắt hơi thì mẹ tôi sai tôi chạy đi kêu chị tôi về, tôi thấy mẹ mình khóc nên mình cũng khóc, vừa chạy vừa khóc giữa trời mưa, hôm ấy mưa lớn lắm, chạy ngoài đường nước ngập đến đầu gối, do đó mà cái vị mặn của nước mắt trôi theo cả dòng đời, đến khi về nhà đối mặt với sự mồ côi thì mới thấy nước mắt mặn đắng, tưởng rằng thế là đắng lắm, nhưng cuộc đời sau này còn đắng hơn nhiều, bầm dập hơn nhiều, do đó mà cái tình thân gia đình anh chị em trong tôi lúc nào cũng mặn mà thay cho cái vị đắng xưa kia.

Mai lại là ngày giỗ cha tôi, mong rằng nước mắt sẽ mặn mà chứ đừng mặn đắng, đời tôi đắng thế là cũng đủ rồi, và e rằng trời cũng sẽ mưa, như bốn mươi bốn năm trước kia thôi. Mưa cho nước mắt bớt đắng...

Thứ Năm, 11 tháng 6, 2009

Dừng bước giang hồ

dungbuoc

Đã đến lúc giang hồ dừng bước.
Cuộc sống nào chỉ có blóc thôi đâu!
Còn miếng cơm, manh áo, nghĩ mà rầu
Và cả mấy cái đét-lai chết tiệt!
Những cú phôn thúc hối mới nghe đã phát khiếp
Lấy đâu ra thời gian cho hết việc mình làm?
Moi đâu ra niềm vui trong cuộc sống bon chen?
Đành khép lại bên ni cầu biên giới.
Long nhong tìm chỗ mai này mà nhắn gởi
Mạng này mạng nọ chụp lấy cũng như không
Được vài ba hôm lại nghẽn tắc lòng vòng
Báo hại dân ghiền tan đàn xẻ nghé.
Người bên này hết than trách rồi thỏ thẻ
Kẻ bên kia cố chèo kéo rủ nhau về
Thương thay cái phận ghiền như một lũ xì ke
Không có kim tiêm mà còn hơn chích choác
Tìm nơi tám chuyện sao mà mỏi mệt?
Nhà chưa xây xong đã bị chặn trước mái hiên
Tìm đâu ra cho được chỗ hàn huyên?
Tìm đâu ra chút tình người nhỏ bé?
Chẳng lẽ một mình dốc bầu tâm sự?
Trên không gian tuy ảo nhưng thật gần
Chốn giang hồ nhưng rặt những người thân
Này anh, này chị, này em, này chú bác
Ét qua ét lại như Dá hù thuở trước
Sớm tối có nhau khi tối lửa tắt đèn
Thế mà khó tìm cho ra một chút bình yên
Hóa ra tự do phải trả bằng cái giá không hề nhỏ
Tư tưởng con người ta nào đâu phải là cây là cỏ?
Thế sao vẫn có những kẻ muốn cắt xén cho ngay lề?
Cuộc sống hôm nay muôn nẻo lối đi về
Phút thăng hoa không thể đến trong bất cập
Lại càng không thể đến trên lề đường đã định trước
Hơi ấm tình người chỉ có tự trong tim
Làm sao có được trong giả dối ươn hèn?
Thôi ta cứ về thong dong tự tại
Cho sự chân thực trong tim còn mãi
Ai chặn ai buông mặc kệ sự đời
Cho dù nỗi nhớ bè bạn chẳng lúc nào nguôi
Nhưng khách giang hồ đã đến lúc dừng bước.

Dừng nơi đâu?
Nơi thiên đường mong ước.
Đó là nơi
Ta có bạn bè ta...

Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2009

Khát khao

eagle Những ngày qua, cư dân mạng nhốn nháo tìm nơi cư ngụ khác sau khi nghe tin Y!360 chính thức đóng cửa, và điều chúng tôi dự đoán đã xảy ra: sẽ có nghẽn mạng khi dòng người di cư hối hả chạy tìm nơi xây nhà, họ tìm nơi nào gần giống nhà cũ của họ nhất, Việt Nam ta chưa quen lối giao tiếp ngắn gọn kiểu twitter hoặc facebook, cũng chẳng khoái kiểu biệt thự của live hoặc của blogger, chúng ta thích cư ngụ kiểu xóm giềng có nhau lúc tối lửa tắt đèn, thích tám chuyện trời ơi đất hỡi, thích ca cẩm thở than cho đời thêm hương vị, do vậy nên multiply.com chính là sự lựa chọn của số đông cư dân Y!360 ngày xưa, vì thế mà mấy ngày nay, anh chàng Mun bắt đầu nghẽn mạng, vì ảnh chưa kịp chuẩn bị tư thế và đất đai cho gần 2 triệu blogger Việt Nam di cư đến cùng một lúc để tám và để sẻ chia. Từ việc này, chúng ta lại đặt câu hỏi: Vì sao các mạng xã hội trong nước đầy rẫy ra đó mà dân Y!360 không thích xài? Lại cứ đi tìm hàng ngoại? Mạng trong nước nào là yobanbe, sky, vnweblog và cả chính anh chàng Yahoo!Plus cũng bị dân blogger thứ thiệt chê, cho dù cách đây không lâu, YPlus tổ chức sinh nhật một năm rầm rộ nào là phát giải nào là thi thố tài năng, nhưng quả thực YPlus chưa xứng đáng để blogger muốn định cư lâu dài cho dù được chèo kéo, mời mọc.

Sự kiện này chứng tỏ được điều gì?

Nó chứng tỏ dân blogger thứ thiệt có một niềm khát khao cháy bỏng, đó là sự tự do, không muốn kẻ khác điều hành hay dòm ngó, vì nhật ký cá nhân mà viết lách phải có định hướng, phải theo lề này lề kia thì blogger chả ham, do vậy mà cái YPlus kia họa chăng chỉ có giới tuổi teen dùng để thỏa mãn những nhu cầu giải trí và nhí nhố, chứ viết những entries sâu sắc để sẻ chia và cảm thông về tình người, về văn chương, về nghệ thuật, về cuộc đời, về xã hội... thì blogger tìm miền đất khác tự do hơn và trung thực hơn, không muốn ai kềm cặp là vậy. Phải chăng đó cũng là niềm khát khao chung của những ai có chiều sâu cảm nhận văn hóa đích thực, chứ không phải thời trang một sớm một chiều là thế. Do đó mà cư dân mạng thường tìm một mạng xã hội nước ngoài vững bền hơn, an tâm hơn và tự do hơn, vì khi tư tưởng con người ta được tự do thể hiện thì cảm xúc mới thăng hoa được, không bị lệ thuộc bởi thằng cha căng chú kiết nào, hoặc thông tư nghị định nào, và đó chính là tính cách blogger ngày nay.

Chúng ta muốn viết, chúng ta muốn sẻ chia, chẳng phải là vì muốn nổi tiếng đâu. Nổi tiếng làm quái gì trên một không gian ảo này, nhưng có được sự sẻ chia về tinh thần, có sự đồng cảm về văn chương về nghệ thuật, thể hiện qua những comments qua lại, điều đó đáng quý hơn sự nổi tiếng nhiều. Do vậy mà càng ngày tôi càng cảm nhận được sự khát khao rất cháy bỏng và rất thực của cộng đồng blogger Việt Nam một cách rất rõ nét, họ tìm đến Multiply, Blogspot, Wordpress và ngay cả một anh bạn rất quen là Yahoo Profiles mà trong lúc chộn rộn chúng ta lại quên mất. Nay Profiles đã tăng cường thêm khả năng viết blog, chuyển blog từ Y!360 qua rất tuyệt, thế thì chắc hẳn blogger chúng ta sẽ có thêm rất nhiều sự lựa chọn rồi, sự lựa chọn cho tự do tư tưởng của con người.

Và sự khát khao đó mới chính là điều chúng tôi rất quan tâm và mong ước.