Hiển thị các bài đăng có nhãn âmnhạc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn âmnhạc. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 1 tháng 4, 2008

Tác quyền Nhạc Trịnh

Em gái cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đòi tác quyền:
Hát một bài nhạc Trịnh phải trả 300.000

Gần một tháng nay, giới nghệ sĩ và những người hoạt động trong lĩnh vực ca nhạc TP.HCM xôn xao chuyện gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn yêu cầu các tụ điểm ca nhạc, các phòng trà thanh toán tiền tác quyền khi dụng các tác phẩm của cố nhạc sĩ...
Phản ứng của các chủ phòng trà
Giấy yêu cầu do bà Trịnh Vĩnh Trinh - em gái cố nhạc sĩ ký tên. Theo đó, bà Trinh yêu cầu: Thanh toán tiền tác quyền của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là 300.000 đồng/bài/lần biểu diễn.
Tổng số tiền thanh toán căn cứ vào tổng số lần biểu diễn tất cả các bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tính từ khi Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam có hiệu lực thi hành.
Ngoài ra giấy yêu cầu trên còn nói rõ: “Thời hạn thanh toán chậm nhất là ngày 31-3-2008. Trong trường hợp không nhận được tiền tác quyền nói trên trong thời hạn này, chúng tôi sẽ nhờ luật sư đại diện pháp lý của gia đình giải quyết theo Pháp luật Việt Nam và ông (bà) phải chịu trách nhiệm thanh toán tất cả mọi chi phí phát sinh, kể cả chi phí pháp lý…”.
Như vậy, nếu căn cứ vào giấy yêu cầu của gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì từ ngày 1-7-2006 (ngày Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam có hiệu lực) cho đến tới cuối tháng 3-2008 này, những phòng trà hay tụ điểm kinh doanh ca nhạc trên địa bàn TP.HCM sẽ phải trả một số tiền không nhỏ.
Các ca sĩ, ông bầu, từ trước tới nay, phần lớn đều sử dụng nhạc Trịnh Công Sơn như của “chùa”. Chỉ có một số ít khi kinh doanh nhạc Trịnh có ý thức trong việc trả tiền tác quyền.
Ca sĩ Ánh Tuyết - Chủ phòng trà ATB cho biết: "Trước đây, ATB từng gửi 10 triệu đồng cho gia đình trong ngày giỗ của anh Sơn, như là tiền bản quyền tượng trưng. Còn từ hôm nhận được giấy yêu cầu trả bản quyền trên, ATB ngưng hát nhạc Trịnh. Tiền tác quyền thì phải trả theo luật, nhưng nếu cứ truy theo 300.000 đồng/bài thì khó cho chúng tôi quá. Vì một đêm hát 20 bài nhạc Trịnh (thứ Sáu hàng tuần), trung bình đã phải trả 6 triệu đồng, nhưng có khi tổng doanh thu chỉ 2 triệu đồng (20 khách). Như thế thì làm sao phòng trà chịu nổi? Phải căn cứ theo chuẩn nào, cách làm nào cho hợp lý, có tính toán, theo doanh thu chứ không thể truy thu kiểu như thế được”.
Một chủ phòng trà xin giấu tên cho biết ngay từ khi nhận được giấy yêu cầu trả tiền tác quyền, phòng trà của ông không sử dụng nhạc Trịnh Công Sơn. Thậm chí có đêm, khi có khán giả yêu cầu ca sĩ hát nhạc Trịnh, ông cũng không cho phép hát vì sợ phải trả thêm tiền.
Trao đổi với một số ca sĩ thường xuyên hát nhạc Trịnh Công Sơn tại các phòng trà, tại một số tụ điểm ca nhạc… chúng tôi đều nhận được lời chối từ khéo léo: Chỉ biết hát, còn vấn đề bản quyền thì chưa được nghe, chưa được biết.
Bà Trịnh Vĩnh Trinh: Quyết làm tới cùng!
Trước đây, lúc sinh thời anh Sơn không đặt vấn đề thu tác quyền nên chúng tôi không thu. Bây giờ anh Sơn đã mất, Việt Nam lại có Luật Sở hữu trí tuệ nên là những người thừa kế, chúng tôi phải có trách nhiệm gìn giữ bảo quản những di sản anh Sơn để lại".
Bà cho biết: "Chúng tôi thu tiền tác quyền để xây dựng quỹ học bổng mang tên anh Sơn, nhằm hỗ trợ tài năng trẻ Việt Nam. Đây cũng là nguyện vọng của anh Sơn lúc sinh thời”.
* Nhưng theo ý kiến của một số người, việc thu 300.000 đồng/bài/lần hát là quá cao và khiến cho nhiều điểm diễn sẽ không có khả năng chi trả?- Trước khi đề ra mức tiền trên, chúng tôi đã tham khảo rất kỹ Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam và thấy đó là số tiền hợp lý. Tôi xin nêu một ví dụ, vào năm 2007, tại phòng trà M. đã tổ chức hai đêm nhạc Trịnh Công Sơn do ca sĩ QD hát. Phòng trà này đã thu tiền phụ thu cho mỗi khách là 300.000 đồng, chưa kể tiền nước. Tôi đã chứng kiến cả hai đêm, đêm nào khách cũng kín chỗ. Với trên 100 chỗ ngồi, tổng số tiền phụ thu hai đêm của phòng trà này đã lên tới trên 60 triệu đồng. Nhưng họ đâu có nói gì đến tiền tác quyền. Nhiều trường hợp đã cố tình xù tiền tác quyền.
Như vào cuối tháng 3-2007, một công ty tổ chức biểu diễn đã xin phép chúng tôi được tổ chức hai đêm nhạc Trịnh Công Sơn tại Hà Nội. Sau khi chúng tôi yêu cầu trả tiền tác quyền, họ đồng ý sẽ trả nhưng vào phút cuối lại nói hoãn không tổ chức chương trình đó nữa. Nhưng sự thật là họ vẫn tổ chức và đã “trốn” tiền tác quyền.
Còn với một số phòng trà nhỏ, doanh thu thấp, chúng tôi vẫn đồng ý để cho họ thương lượng. Cách đây hơn 2 tuần, sau khi nhận được giấy yêu cầu tiền tác quyền, có vợ chồng chủ quán nhạc Trịnh ở quận Bình Tân đã tới gặp chúng tôi và cho biết họ yêu thích nhạc Trịnh nên mới mở quán nhỏ để kinh doanh. Sau khi xem xét thực tế doanh thu, chúng tôi đã đồng ý cho họ tự nguyện trả tiền tác quyền.
Vì thế tôi vẫn khẳng định số tiền 300.000 đồng không phải là cố định mà chúng tôi có thể thay đổi, miễn sao cho những người sử dụng nhạc Trịnh để kinh doanh phải thấy trách nhiệm của mình trong việc trả tiền tác quyền.
* Việc thu tiền tác quyền nhạc Trịnh sẽ khiến nhiều khán giả mất cơ hội thưởng thức nhạc Trịnh, và nhiều phòng trà cũng bắt đầu từ chối hát nhạc Trịnh?
- Tôi không nghĩ là như thế! Từ trước tới nay rất nhiều nhạc sĩ khác được trả tiền tác quyền, tại sao Trịnh Công Sơn lại không được trả? Việc từ chối hát nhạc Trịnh tại một số phòng trà tôi không biết, nhưng việc tuân thủ pháp luật về tiền tác quyền là điều đương nhiên. Còn nhạc Trịnh đã có chỗ đứng trong lòng khán giả từ rất lâu nên tôi tin trong thời gian tới, khi tác quyền được thực hiện nghiêm túc, khán giả vẫn có cơ hội thưởng thức.
* Lúc sinh thời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất ưu ái với những ca sĩ trẻ khi sử dụng các ca khúc của ông để tạo dựng tên tuổi. Liệu khi tiền tác quyền được thực thi, những ca sĩ trẻ mong muốn được hát nhạc Trịnh có thể được lưu ý?
- Như tôi đã nói, Quỹ tài năng trẻ mang tên anh Sơn do chúng tôi lập ra cũng nhằm tìm và phát hiện những tài năng trẻ trong âm nhạc. Cách đây mấy năm, một ca sĩ trẻ ra album đầu tay chúng tôi cũng không lấy tiền tác quyền và hiện nay ca sĩ đó đã nổi tiếng. Sau khi quỹ thành lập xong và đi vào họat động thì không chỉ miễn tiền tác quyền, chúng tôi còn tài trợ, giúp đỡ các ca sĩ trẻ lập nghiệp.
* Sao gia đình bà không ký ủy quyền cho Trung tâm Bảo vệ tác quyền tác giả âm nhạc Việt Nam thu cho tiện?
- Chúng tôi không quen nói đến chuyện tiền bạc nên khi đặt vấn đề tiền tác quyền, chúng tôi đã gặp một số phản ứng. Vì thế chúng tôi cũng đã làm việc với Trung tâm Bảo vệ tác quyền tác giả âm nhạc Việt Nam và có lẽ chúng tôi sẽ ủy quyền cho nơi này làm giúp thì hợp lý hơn. Nhưng chúng tôi vẫn khẳng định sẽ quyết tâm làm tới cùng việc thu tác quyền nhạc Trịnh Công Sơn vì điều này Luật đã cho phép.
TRỌNG THỊNH - Theo Tiền Phong
Ý kiến bạn đọc:
TTO - Nên "thích nghi" với vấn đề tác quyền hay nên để nhạc Trịnh được "miễn phí" sống trong lòng đại chúng? Ai có quyền đòi tiền tác quyền và mức tác quyền nên được tính ra sao, bạn đọc TTO đã có nhiều ý kiến khác nhau
Nếu thu phí tác quyền đối với 1 lần hát ca khúc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì giá 300.000 đồng hoặc ít hơn bao nhiêu cũng làm không ít người kinh doanh phòng trà hay quán cà phê dùng nhạc Trịnh làm thương hiệu kinh doanh lâu nay cảm thấy hơi choáng, chí ít họ cũng đã ít nhiều tạm dừng việc hát nhạc Trịnh.
Mong chị Trịnh Vĩnh Trinh suy nghĩ lại chút ít, nếu cứ làm như trên thì hóa ra nhạc Trịnh đâu còn là thứ nhạc của đại chúng?!
PHAN NHƯ QUỲNH
Âm nhạc luôn đi vào lòng người, từ hàng trăm năm nay, trên thế giới các nhà soạn nhạc tên tuổi như Bethoven, Mozart... để lại những bản tình ca bất hủ. Họ đã mất đi, nhưng tên tuổi của họ thì còn lại mãi ngàn năm.
Không ai phủ nhận quyền giữ bản quyền của tác phẩm, nhất là trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, tuy nhiên sự thăng hoa trong âm nhạc và sự lưu truyền từ đời này sang đời khác các bản nhạc bất hủ có lẽ là điều vô giá đối với một nhạc sĩ, nó còn giá trị hơn rất nhiều những đồng tiền bản quyền bình thường kia!
Tôi vẫn thường nói vui với bạn bè rằng nhạc Trịnh có khi vẫn còn được đời cháu, chắt của chúng ta lắng nghe và cảm nhận, lưu truyền. Nhưng nếu 300.000 đồng một bài, hỡi ôi sinh viên, công chức làm sao nghe nổi, chỉ một phần nhỏ "đại gia" nghe thôi...Thật đáng tiếc và buồn!
VŨ BÌNH MINH
Trịnh Công Sơn một cây đại thụ trong làng nhạc sĩ Việt Nam. Cả một đời cống hiến cho âm nhạc, có thể nói những bản nhạc của ông đã đi sâu vào lòng không biết bao người yêu nhạc...
Có thật sự là tâm nguyện của ông muốn lập một quĩ gì đó mà gia đình nói không? Tôi thiết nghĩ nếu thu tác quyền như thế thì khi người yêu nhạc khi nghe nhạc Trịnh sẽ không còn như trước nữa, thay vào đó là một tâm lý không thoải mái.
TRẦN VĂN NGUYỄN
Lâu nay người Việt chúng ta cứ quen xài "chùa" mất rồi. Nay người ta đòi tác quyền thì giãy nãy lên! Phải tuân thủ luật tác quyền cho phù hợp với các xã hội văn minh thôi.
Thế nhưng theo tôi, ở các phòng trà mà thu một lần hát cho một ca khúc tới 300.000 đồng là hơi cao, cần xem lại giá cả. Còn nếu hát trước một sân khấu lớn với hàng ngàn khán giả thì mức thu như trên lại quá "bèo".
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
Tôi nghĩ các phòng trà, tụ điểm tổ chức ca nhạc hay các ca sĩ muốn hát nhạc của bất cứ nhạc sĩ nào sáng tác đều phải có trách nhiệm trả tiền tác quyền, vì mỗi đêm ca sĩ biểu diễn thu vào hàng mấy chục triệu đồng (trừ những ca sĩ mới chập chững vào nghề), các bầu sô thu vào cũng không kém...Vì vậy, thu nhập nhưng có phần công sức của người khác thì phải có trách nhiệm.
NGUYỄN THANH LÂM
Theo tôi thấy thì việc thu tiền tác quyền những ca khúc Trịnh Công Sơn là hợp lý vì những người kinh doanh cũng như ca sỹ phải biết trách nhiệm của mình khi kinh doanh sản phẩm trí tuệ của người khác. Đó mới đúng là sự công bằng,văn minh phù hợp với xu hướng hội nhập của thế giới.
TH.MINH
Tôi là một người rất quan tâm về lĩnh vực âm nhạc và đặc biệt là nhạc Trịnh. Vì thế khi đọc được bài viết này tôi cũng rất lấy làm tâm đắc vì quyền sở hữu trí tuệ của VN đã bắt đầu có hiệu lực và được thực thi một cách nghiêm túc (dù rằng đấy chỉ là mới bắt đầu).
Theo tôi chị Vĩnh Trinh hoàn toàn có lý do để đưa ra một cái mốc 300.000đồng/bài hát của nhạc sĩ TCS nhưng thiết nghĩ nó phải được đặt dưới sự quản lý của một tổ chức hay một cơ quan đại diện nào chứ không phải là của chị Vĩnh Trinh, dù rằng số tiền tác quyền đó có làm vào mục đích nào đi chăng nữa. Đừng để vì bất cứ một lý do nào để ảnh hưởng đến một thần tượng, một tài năng âm nhạc mà rất lâu nay mọi nguời yêu nhạc mến mộ.
TRAN HOAI DUY
TT - Việc ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh - đại diện gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - gửi văn bản đến các phòng trà, đơn vị tổ chức biểu diễn đề nghị thanh toán (từ 1-7-2006) tác quyền ca khúc của anh trai đang khiến không ít ông bà chủ của những đơn vị tổ chức biểu diễn "băn khoăn", "bối rối".
Theo yêu cầu từ phía gia đình cố nhạc sĩ, một bài của Trịnh Công Sơn được sử dụng phải trả số tiền 300.000 đồng/lần.
Thu tiền tác quyền: lâu nay làm… cho có
Sự kiện gây "bối rối" vì số lượng ca khúc của Trịnh Công Sơn được sử dụng là không nhỏ, được hát không ít lần. Còn "băn khoăn" vì một thực tế khác, trừ những ca khúc của Phạm Duy được Phương Nam độc quyền - kiểm soát bản quyền chặt chẽ, lâu nay chuyện thu tiền tác quyền ca khúc chỉ được làm... cho có.
Là đơn vị tổ chức chương trình lớn và sản xuất băng đĩa có sử dụng ca khúc của Trịnh Công Sơn thường xuyên nhất, Phương Nam đã thực hiện trả tiền tác quyền những ca khúc ghi âm để phát hành CD cho gia đình nhạc sĩ với giá 1 triệu đồng/bài. Số tiền sẽ được tính cao hơn với những ca khúc được sử dụng trong chương trình biểu diễn có doanh thu, ghi hình và phát hành đĩa sau đó. Nhưng thực tế, việc tôn trọng tác quyền ca khúc của Trịnh Công Sơn nói riêng và nhiều nhạc sĩ VN nói chung trong những hoạt động biểu diễn khác thì hoàn toàn ngược lại…
Ca sĩ Ánh Tuyết - chủ phòng trà ATB - cho biết việc thu tiền tác quyền ca khúc hiện nay hầu như chỉ được thực hiện trong những chương trình lớn, con số thường là 500.000 đồng đến 1 triệu đồng/bài, nhưng lại được thỏa thuận gia giảm tùy vào tính chất sô "từ thiện hay không từ thiện", "truyền hình hay không truyền hình"... Ngay với việc trả tiền tác quyền cho những ca khúc của Văn Cao mà ATB thường xuyên sử dụng cũng chỉ được tính theo... tình cảm. Tức là có doanh thu tốt thì Ánh Tuyết sẽ tự nguyện trích một khoản để gửi lại gia đình của nhạc sĩ, còn ngược lại thì... Nhạc sĩ Lê Quang, chủ phòng trà Không Tên, cũng cho biết trước nay phòng trà không phải trả tiền tác quyền ca khúc cho nhạc sĩ, dù đó là một việc hợp lý.
Ông Nguyễn Tuấn - đại diện phòng trà Tình Ca, trước đây là biên tập của phòng trà M&Tôi - cho biết trong cân đối thu chi của các phòng trà trước nay thường không có khoản cho "tiền tác quyền".
Thương lượng để trả theo doanh thu
Về bản quyền ca khúc nói chung, Phương Nam là đơn vị đầu tiên thực hiện độc quyền các ca khúc của Phạm Duy và áp dụng chế độ thu tiền tác quyền. Qui định được đưa ra ngay từ đầu nên cũng dễ cho các đơn vị trong việc cân đối, quyết định tổ chức những chương trình có sử dụng ca khúc của ông. Bà Phan Mộng Thúy, giám đốc Phương Nam, cho biết đơn vị của mình cũng không quá cứng nhắc trong việc thu tác quyền. Cụ thể với những chương trình của Ánh Tuyết tổ chức tại phòng trà hay một số chương trình nhỏ, vừa khác, số tiền thu không được tính với giá 1 triệu đồng/bài như qui định, mà tính tùy thuộc vào tính chất, qui mô của chương trình.
Phương Nam cũng áp dụng "hợp đồng linh hoạt" với Đức Tuấn - ca sĩ thường xuyên hát nhạc Phạm Duy. Theo đó, số tiền Đức Tuấn phải trả cho việc sử dụng ca khúc được tính theo năm. Con số này sẽ ít hơn rất nhiều so với việc nhân và cộng số lần, số bài sử dụng. "Hơn nữa cũng không thể nào kiểm soát hết được ca sĩ hát bao nhiêu bài, bao nhiêu lần trong những chương trình dạng "hát theo yêu cầu" của phòng trà - bà Thúy nói - Với thực tế hiện nay, quan trọng không phải là thu được nhiều tiền mà là kêu gọi ý thức tôn trọng tác quyền của người sử dụng".
Với những đêm nhạc Trịnh sắp được tổ chức, phần lớn đều tiến hành thương lượng lại với gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để trả theo doanh thu, chương trình chứ không áp dụng hình thức tính theo bài, lần. Như ba đêm nhạc Trịnh sắp được tổ chức tại phòng trà Yesterday dự kiến sử dụng 31 ca khúc/đêm. Anh Khoa, người thực hiện chương trình, cho biết tổng số tiền tác quyền mà chương trình trả gia đình ông là 10 triệu đồng/đêm. Số tiền này được tính theo thỏa thuận chứ không theo số lượng bài.
Nhạc sĩ Lê Quang định tổ chức chương trình nhạc Trịnh cũng cho biết: "Tôi và chị Trịnh Vĩnh Trinh đang thương lượng lại. Có thể sẽ không áp dụng cách tính theo bài, lần mà theo quí hoặc năm, vì hoạt động phòng trà sử dụng rất nhiều ca khúc, hát theo yêu cầu khán giả, không như những hoạt động biểu diễn khác".
Ông Nguyễn Tuấn, biên tập phòng trà Tình Ca, thổ lộ: "Phòng trà Tình Ca đã thương lượng lại với gia đình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về tiền tác quyền ca khúc trong hai đêm nhạc sắp tổ chức, sẽ không tính theo số bài mà dựa vào doanh thu của chương trình và trên tinh thần hợp tác để góp phần giữ cho nhạc Trịnh sống mãi".
ĐỖ DUY
Thông tin tham khảo
* Theo các phòng trà và đơn vị tổ chức khác, việc thu tiền bản quyền ca khúc là hoàn toàn đúng, nhưng do thực tế quản lý lỏng lẻo bấy lâu nay không được áp dụng đồng bộ, nên việc truy thu là hơi... khó. Hầu hết giới tổ chức biểu diễn phòng trà đều cho rằng cách tính 300.000 đồng/bài/lần hát là khá cao. Với những chương trình phòng trà, ca sĩ hát rất nhiều theo yêu cầu, tính bằng số lần thì con số phải trả trong một đêm sẽ không thua gì catsê của một ca sĩ hạng B.
* Ông Tô Văn Long - trưởng phòng quyền tác giả, Cục Bản quyền tác giả:
Việc thu tiền bản quyền được tính căn cứ theo nghị định của Chính phủ về chế độ nhuận bút (nghị định số 61/2002/NĐ-CP). Đối với những lĩnh vực chưa được qui định sẽ dựa trên sự thỏa thuận giữa tác giả với nhà khai thác sử dụng.
Nghị định số 61 của Chính phủ về chế độ nhuận bút nêu rõ: tác phẩm đã công bố, phổ biến khi được sử dụng lại, tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm vẫn hưởng nhuận bút theo qui định. Việc trả nhuận bút phải đảm bảo hợp lý giữa lợi ích của tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm, lợi ích của bên sử dụng tác phẩm và lợi ích của người hưởng thụ tác phẩm, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Đối với tác phẩm có tính đặc thù chưa được qui định cụ thể tại nghị định này thì việc trả nhuận bút do thỏa thuận giữa bên sử dụng tác phẩm với tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm thông qua hợp đồng thỏa thuận khoán gọn.
* Theo Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc VN (VCPMC), mức thu tiền bản quyền áp dụng trong năm 2007-2008 tại quán cà phê, giải khát (kể cả phòng trà - PV) tại thành phố loại một: tại quận - khu vực trung tâm, mức thu (khoán) đối với việc sử dụng nhạc sống ở những quán dưới 30 chỗ ngồi là 75.000 đồng/tháng. Nếu quán có trên 30 chỗ ngồi, thu theo mức 7.500 đồng/chỗ ngồi/tháng. Số tiền bản quyền thu được sẽ chia cho các tác giả căn cứ trên danh sách tác phẩm âm nhạc đã sử dụng nhân với số lần sử dụng tại quán. Danh sách và số lần sử dụng do người sử dụng điền vào bản kê khai có sẵn của VCPMC.
Theo VCPMC, cách tính này căn cứ trên các qui định luật pháp và dựa trên sự thỏa thuận giữa VCPMC, tác giả và nhà khai thác sử dụng. Kể từ năm 2006, gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tự tiến hành việc thu tiền bản quyền, không ủy thác cho trung tâm như trước kia.
U.LY - Đ.D
Ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh - đại diện gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:
Chúng tôi linh động trong việc áp dụng khung giá
* Thực tế việc truy thu tiền tác quyền những ca khúc của Trịnh Công Sơn ở thời điểm này xuất phát từ lý do gì?
- Trịnh Vĩnh Trinh: Đã từ bấy lâu nay việc trả tiền tác quyền cho anh Sơn được thi hành một cách tùy tiện. Gia đình chưa bao giờ lên tiếng. Tuy nhiên trong những năm gần đây, việc vi phạm tác quyền càng ngày càng nghiêm trọng. Điển hình là gần đây những đêm nhạc Trịnh Công Sơn tại một số phòng trà lớn ở TP.HCM, đêm biểu diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội, Cung văn hóa Hữu nghị Hà Nội… những nhà tổ chức gồm những người nổi tiếng kể cả nhạc sĩ không hề đoái hoài đến việc thi hành nghĩa vụ tác quyền. Và đến khi gia đình bắt buộc phải nhắc nhở thì họ vẫn lờ đi! Theo anh, chúng tôi cần phải làm gì?
* Việc thu tiền tác quyền ca khúc đã không được áp dụng chặt chẽ trong thời gian qua dẫn đến các đơn vị tổ chức chưa có ý thức tốt và băn khoăn, bối rối trong lần truy thu này, dù biết đó là khoản thu hợp lý. Chị nghĩ sao?
- Thật sự khung tác quyền đã được định nghĩa rất rõ ràng bởi Cục Tác quyền một cách bài bản và khoa học, dựa trên loại hình biểu diễn, nơi biểu diễn, số ghế và giá vé... Nếu gia đình chúng tôi áp dụng khung giá này thì số tiền tác quyền phải trả sẽ lớn hơn nhiều. Phải nhấn mạnh rằng qua kinh nghiệm, những cá nhân hay tổ chức thật sự muốn trả tiền tác quyền thì đó không phải là vấn đề. Chúng tôi luôn linh động trong việc thu tiền tác quyền nhằm khuyến khích các hoạt động văn nghệ chân chính và có tính cách quần chúng. Điển hình là chúng tôi chưa bao giờ đặt vấn đề tác quyền cho tất cả những đêm nhạc Trịnh Công Sơn tổ chức hằng năm tại khu du lịch Thanh Đa - Bình Quới.
Rất nhiều cơ sở khác như cà phê Trịnh ở quận Tân Bình, cà phê Yesterday ở quận 3, phòng trà Tình Ca của gia đình nhạc sĩ Phạm Duy, của ca sĩ Lan Ngọc đều đóng góp trên cơ sở tự nguyện.
Tôi xin xác nhận không có việc phải trả 300.000 đồng cho mỗi bài hát Trịnh Công Sơn. Số tiền này có thể cao hơn nhiều hoặc rất thấp hơn, hoặc miễn thu tùy theo địa điểm, chủng loại và tính cách quần chúng của nó. Dĩ nhiên nếu những buổi trình diễn thuần túy chỉ mang tính chất thương mại thì chúng tôi có quyền áp dụng khung giá tác quyền qui định bởi luật pháp VN.
* Các đơn vị tổ chức cho rằng con số 300.000 đồng/bài là quá cao so với những hoạt động của phòng trà. Chị nghĩ sao về việc này?
- Nếu phải áp dụng theo đúng khung giá qui định bởi Nhà nước thì con số 300.000 đồng/bài cho những hoạt động của phòng trà thì vẫn còn thấp cho những phòng trà có tầm cỡ. Và chúng tôi luôn linh động trong việc áp dụng khung giá, phân biệt những hoạt động có tính chất quần chúng với những hoạt động chỉ mang tính chất kinh doanh, thương mại. Rất tiếc, những người than vãn về tiền tác quyền phải trả trên công luận lại là những người chưa bao giờ đến gặp chúng tôi.
ĐỖ DUY thực hiện
Ý kiến bạn đọc:
Thu tiền tác quyền, xin nhã nhặn hơn!
TTO - Hôm nay đọc vấn đề chị Trịnh Vĩnh Trinh yêu cầu 300.000đồng cho mỗi bài nhạc Trịnh hát ở phòng trà và thấy có một số chủ phòng trà phản đối tôi nghĩ cũng lạ.
Xét về phương diện tác quyền, không biết là các chủ phòng trà hay các ca sĩ trình bày phản đối như vậy có phải là kém tôn trọng tác quyền? Với các ca sĩ được mến mộ thì 300.000đ trên một bài hát họ trình bày là quá nhỏ nhoi, trong khi thu nhập họ hát với đơn vị tính là triệu đồng. Tuy nhiên với các phòng trà nhỏ với các ca sĩ hát như là một nghiệp thì quả thật 300.000đ là rất lớn.
Xét về phương diện nhân sinh, nhạc của ông không phải để nghe mà còn để nghĩ. Người yêu nhạc Trịnh Công Sơn là vì vậy, người nghe đa phần là những người thích sự thâm trầm. Tôi khi xưa lúc không có tiền cũng mua những đĩa nhạc Trịnh không có bản quyền, giá rẻ. Sau này, khi có được thu nhập tôi lại mua những đĩa có bản quyền, dù rằng những đĩa đó mình đã có trước một bản copy.
Vấn đề đặt ra theo tôi nghĩ là cách thu và cách nêu ra lý lẽ, không nên đặt dư luận trước một lý lẽ hơi chung chung là "thu để làm quỹ học bổng", điều này có vẻ không thuyết phục. Bằng cách nào đó, gia đình nhạc sĩ nên khéo léo, không nên khiến người nghe sẽ quay lưng vì thấy nhạc Trịnh không còn để thâm trầm suy ngẫm nữa mà nó đang là "money maker" (kiếm tiền).
Nhạc của Trịnh Công Sơn là di sản, gia đình là người được ủy thác để gìn giữ di sản đó, mong hãy làm cho di sản tinh thần này được lan tỏa đến mọi người để mọi người cùng gìn giữ. Đừng để mọi người phó thác cho gia đình giữ di sản... một mình (!).
HV NGUYEN
300.000đồng mới chỉ là số tiền đề nghị phải trả đối với các phòng trà nhỏ, còn với các phòng trà lớn như Không Tên, M&Tôi chẳng hạn, bà Trinh đề nghị trả 500.000đ/bài/lần hát. Nếu thu đủ theo mức này thì tôi cam đoan chẳng phòng trà nào dám cho ca sĩ hát nhạc Trịnh hằng đêm. Giỏi lắm thì cố gắng thi thoảng làm một chương trình như dịp 1-4- ngày giỗ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chẳng hạn.
Thu tác quyền là điều không thể chối cãi, các phòng trà theo tôi biết cũng sẵn sàng trả tác quyền, nhưng thu thế nào cho hợp lý chứ ra tối hậu thư theo kiểu đòi nợ, hù dọa như thế, khiến nhiều người cảm thấy khó chịu và họ bỏ luôn đêm nhạc Trịnh Công Sơn hay không cho ca sĩ hát nhạc Trịnh là điều dễ hiểu.
Thử hỏi từ khi có Luật sở hữu trí tuệ, gia đình Trịnh Công Sơn có ra công văn gửi các nơi đề nghị trả tiền tác quyền chưa mà bây giờ đùng một cái lại đi gửi giấy đòi tiền như vậy, còn tự ý ra mức giá thu mỗi bài 300.000 - 500.000 đồng cho mỗi lần hát. Không kể các ca sĩ ngôi sao, hầu hết các ca sĩ hát nhạc Trịnh ở các phòng trà hát một show (từ 2-3 bài) được trả khoảng 100.000 - 200.000 đồng thì lấy tiền đâu trả tác quyền?
Còn nếu phòng trà phải trả thì cứ một ca sĩ hát 2 -3 bài như thế, một đêm cũng khoảng trên dưới 20 bài, số tiền phải trả là từ 6- 10 triệu đồng. Lỗ là cái chắc! Còn vịn vào các đêm có ngôi sao, tiền phụ thu cao - cũng phải tính đến tiền cho ca sĩ, tiền mặt bằng, điện nước, ban nhạc, nhân viên, thuế... Chưa kể là lâu lâu họ mới dám làm một đêm như vậy để bù vào các đêm bị lỗ hay vắng khách.
Cho nên phải cân nhắc sao cho hợp tình hợp lý và người ta có thể chấp nhận được, chứ kiểu này thì nhạc Trịnh vô tình trở thành một món hàng xa xỉ không còn được phổ biến đại chúng như trước đây nữa.
Theo tôi, cách tính tác quyền hợp lý nhất là cứ thu như các nhạc sĩ hiện đang làm vậy. Tức một ca khúc ca sĩ mua độc quyền của nhạc sĩ khoảng 5 triệu đồng, còn mua tác quyền chỉ từ 500.000 đến 1 triệu và được quyền hát bất cứ đâu, bất cứ bao nhiêu lần, kể cả làm băng đĩa.
Nhạc Trịnh thì không thể (hay đúng hơn là không nên) bán độc quyền, vì nhạc Trịnh là nhạc của đại chúng. Cho nên chỉ có thể bán tác quyền cho các tụ điểm hay phòng trà có hát nhạc Trịnh. Muốn mua tác quyền bao nhiêu bài thì đăng ký và chỉ trả một lần để các ca khúc đó được hát ở phòng trà đó, nếu không đủ tiền thì mua nhiều đợt, vì nhạc Trịnh Công Sơn có tới hàng ngàn bài mà. Thu như vậy là hợp lý và các phòng trà có thể chấp nhận được, còn nếu mỗi lần hát mỗi lần thu thì đố ai dám hát thường xuyên. Nhạc Trịnh dần dần bị xếp xó là cái chắc.
Chỉ những chương trình lớn, có đông khán giả, có tài trợ thì thu 300.000 đồng hay 500.000 đồng/bài/chương trình là phải. Mong bà Trịnh Vĩnh Trinh và gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn xem lại cách thu tác quyền và cách hành xử nhã nhặn hơn đối với những nơi đang phổ biến và bảo tồn di sản của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
HỒNG SƠN

(Tổng hợp từ báo Tuổi Trẻ)

Thứ Ba, 8 tháng 1, 2008

Âm nhạc - sự kỳ diệu của cảm xúc

Cảm xúc của con người thường biểu lộ bằng nhiều trạng thái vui, buồn, giận hờn, ghen ghét, yêu thương... hầu như ai cũng cảm nhận được, nhưng nếu tổng hợp các thứ ấy lại thì tôi lại nghĩ đến Âm nhạc, vì theo như tôi thấy thì trong các loại hình nghệ thuật, chỉ có âm nhạc mới có đủ điều kiện hội tụ các cảm xúc ấy một cách kỳ diệu, do vậy mà tôi mới ghi cái tiêu đề trên là vậy.
Ở đây tôi không dám lý luận về Âm nhạc, cái đó dành cho các nhà phê bình. Tôi chỉ muốn chia sẻ một vài cảm nhận về âm nhạc, và tôi thấy thật là diệu kỳ khi ta biết cảm nhận về nó, sống với nó và lạ thay, ta được thăng hoa cùng âm nhạc lúc nào không hay nữa. Kỳ diệu là thế đó.
Có lắm người khi nói đến âm nhạc thì họ lắc đầu, bảo rằng chẳng quan tâm, hầu như trong cuộc đời họ ít sinh hoạt cộng đồng, miệng chẳng bao giờ cất tiếng hát, tôi thấy thật là uổng, có lẽ họ cho rằng những việc khác quan tâm hơn, có lợi hơn là việc ca hát hoặc thưởng thức âm nhạc. Suy nghĩ như thế thì thật là thiếu sót, vì tại sao sự kỳ diệu của cảm xúc đang ở quanh ta mà ta lại chối từ nhỉ? Uổng thiệt đó nghen!
Tôi xin kể lại câu chuyện này để thấy được cái sự kỳ diệu đó: Chuyện xảy ra ở nước Áo cách đây mấy thế kỷ, vào một đêm nọ, trong khu phố nghèo nàn của thủ đô Vienne, có tiếng khóc nghẹn ngào của một cô gái bên giường bệnh của cha cô đang cơn hấp hối. Trong cơn đau đớn cùng cực trước khi chết, người cha chỉ muốn được nhìn lại hình bóng người vợ thân thương của mình qua đời đã lâu, nhưng không tài nào thực hiện được, cô gái nhìn cha mà khóc ngất, thương cha nhưng không biết làm cách nào giúp cha, chỉ biết ôm lấy bàn tay cha đang lạnh dần mà khóc nức nở. Đúng lúc đó thì cửa mở, một chàng thanh niên bước vào hỏi cô vì sao mà như vậy, có thể giúp cô được gì không. Nghe cô gái kể lại nguyện vọng của cha mình, anh chàng suy nghĩ một lúc rồi nhìn thấy cây đàn piano cũ ở trong góc nhà, anh đứng dậy phủi bụi rồi mở nắp đàn. Cô gái chẳng hiểu chuyện gì, chẳng lẽ trong giờ phút đau buồn thương tâm này mà lại đàn ca nữa ư? Nhưng cô không dám hé môi, chỉ biết chăm chú nhìn anh ta. Chàng trai nhẹ nhàng lướt trên phím đàn từng nốt nhạc lúc thì trầm bổng lúc thì thanh cao, lúc nghe như tiếng gió, lúc lại như tiếng nước suối reo róc rách, lúc lại dặt dìu như những bước chân đi... Bỗng dưng cô gái thấy môi cha mình nhoẻn một nụ cười nhẹ, ông kêu lên: "Con ơi, cha thấy rồi... cha thấy rồi, đúng là ngày ấy, cha gặp mẹ cũng bên bờ suối này đây... cái tiếng nước reo... cha vẫn nhớ! Ấy, mẹ con đang đến kìa! Cha thấy rồi, con yêu ơi, cha mãn nguyện lắm!..." Tiếng nhạc của chàng trai vẫn réo rắt, diễn tả làm sao cho hợp với nỗi lòng của ông cụ đáng kính kia, âm nhạc đã tạo nên hình ảnh, tạo nên kỷ niệm trong đầu óc người cha đang hấp hối, cho đến khi ông chìm vào giấc ngủ. Cô gái quay sang chàng trai hỏi: "Thưa ông, tôi xin cám ơn ông, vì nhờ ông mà cha tôi thấy lại được những kỷ niệm xa xưa như lòng mong ước, không còn cảm thấy đau đớn, nhưng xin hỏi ông, ông làm thế nào mà cha tôi lại có thể thấy được những hình ảnh thân thương ấy hở ông?" Chàng trai trả lời: "Có phải tôi làm đâu! – anh chỉ vào cây đàn – Chính nó làm đấy cô ạ!". Cô gái nói tiếp: "Cám ơn ông, xin ông cho tôi được biết quý danh để mà nhớ đến chứ?". Chàng trai đáp: "Vâng, thưa cô, tên tôi là Mozart, Wolfgang Amadeus..." Quả thật, đối với bậc thầy âm nhạc như Mozart thì có lẽ chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi ông biến những nốt nhạc thành hình ảnh được như thế.
Vậy đó, sự kỳ diệu của âm nhạc có thể khiến người ta liên tưởng được nhiều thứ, thấy được rất nhiều thứ ngay trên cảm xúc của mình. Do vậy mà tôi rất quý trọng âm nhạc, rất yêu nó, tuy rằng chỉ thỉnh thoảng mới có chút thời gian hiếm hoi để được sống cùng nó. Ai ai cũng có thể hiểu được rằng âm nhạc dễ dàng đi với chúng ta trong suốt cuộc hành trình làm người, từ bé, đã nghe tiếng mẹ ru, lớn lên, vui đùa hát ca cùng nắng sớm, cùng hoa đồng cỏ nội, lớn lên nữa, tha thiết trong lời yêu với những bản tình ca, lớn nữa như chúng tôi đây, sâu lắng với hoài niệm cuộc đời, và cuối cùng, chìm dần trong bản Requiem để đi vào cõi vĩnh hằng của mỗi con người. Bạn có còn nhớ bài Requiem trong phim Titanic không? Khi biết rằng tàu chìm, không còn đủ xuồng cứu hộ để thoát thân được nữa, mấy anh nhạc công trên tàu đã quây quần lại, cùng cất cao tiếng đàn tiếng hát bài ca cầu hồn ấy để cùng nhau ra đi theo con tàu đang chìm dần... Âm nhạc là thế đó, nó cao đẹp cho đến giờ phút cuối cùng của mỗi con người. Do vậy mà các entry của tôi thường hay nói đến âm nhạc là vậy.
Âm nhạc còn là những lời nhắn nhủ nhẹ nhàng cho riêng mình, êm ái và đằm thắm, tự mình an ủi mình, vì thân phận làm người lắm khi xúc cảm và buồn đau, hời hợt ngay cả với chính mình, cố nhạc sĩ tài hoa Họ Trịnh chính là người đi đầu trong dòng nhạc sâu lắng này:
Hãy cứ vui như mọi ngày,
Dù chiều nay không ai qua đây,
Hỏi thăm tôi một lời.
Vẫn yên chờ đêm tới.
Lòng ta trăm con hạc gầy vút bay...

Âm nhạc nó đi vào tâm hồn không chỉ người cảm nhận mà còn người sáng tác ra nó nữa. Nhạc sĩ Phạm Duy có lần đã tâm sự, một trong những giây phút hạnh phúc nhất trong đời nhạc sĩ của ông là vào một đêm nọ, ông đang thơ thẩn trên ban công nhà mình, chợt nghe tiếng hát của một chị gánh nước mướn phía đầu con hẻm, chị ca sai be bét, nhưng một cái sai rất hồn nhiên khiến ông cầm lòng không đậu, muốn rơi cả nước mắt vì sung sướng: "Ngày chở dề, anh bước lê, chên quãn đườn đê đến bên lũy che, nắng vàng hoe, vườn dau chước hè chờ đón người dìa...". Điều gì tạo nên cái hạnh phúc kia nếu không phải là âm nhạc?
Mấy ai nghe lại bài Lời gọi chân mây của Lê Uyên Phương ngày nào với những nét chấm cách cực kỳ bay bổng, phân lời ca ra từng chữ ngọt ngào và buồn thương, để cho người hát những xúc cảm vô cùng mãnh liệt, thế mới biết âm nhạc nó diệu kỳ như thế nào?!
Em ơi, xin em, xin em nói, yêu đương, đậm đà,
để rồi, ngày mai... cách xa...
Anh ơi, xin anh, xin anh lúc, chân mây, mệt nhoài,
trở về, lòng êm, thân ái...
Nhớ đến, ngày, còn gần, nhau...
Nước mắt, rơi...
khóc phút không ngờ...
Nhớ, thương, ngậm, ngùi, cách, xa...
Biết đến bao giờ?...

Khi vui ta hát ca đã đành, nhưng khi buồn tôi cũng cố mà đàn mà hát, lắm khi vừa hát vừa rưng rưng, cái tính mẫn cảm là thế mà! Cố lấy cái âm nhạc mà quên đi sự đời, biết rằng nó khó đấy, nó đắng đấy, nó đau đấy, nhưng mà vẫn thích, vẫn say mê. Nhiều khi chỉ thích dăm ba người bạn đêm về ngồi trên ban công ngắm trăng, một đĩa mồi, vài xị rượu, một cây ghita và muôn vàn bài hát, thấy cuộc đời chẳng khác gì chốn thần tiên, hát những bài tình ca hợp gu với nhau, nhẹ nhàng, buông lơi, cho đến khi mệt lử và chìm dần vào giấc ngủ, không còn gì sung sướng hơn.
Một lần em có nói,
Về xứ thâm trầm xa cuộc đời này...
Về xứ thâm trầm xa cuộc đời này...
Sẽ không còn ngàn kiếp truân chuyên
Và hết nhân duyên
Tôi trở về khép đọng linh hồn
làm mặt đá xây hồ lãng quên...
Một lần em có nói...

Vậy đấy! Cảm xúc thăng hoa là thế, nỉ non yêu thương là cũng thế. Âm nhạc tuyệt vời như vậy thì sao ta lại buông ra được nhỉ? Sao ta dại gì mà không tận hưởng nhỉ? Papi có hứa với một vài người bạn rồi nhé, nhất định thế nào cũng thực hiện. Có rượu, có bạn, có nhạc, thế thì không thần tiên là gì nhỉ? (hứa riêng với bạn Tuấn sesan nhé!)
Muốn viết nhiều hơn nữa nhưng thôi. Thế nhé bạn! khi vui tìm đến âm nhạc thì khi buồn cũng vậy nhé! Nó sẽ đưa ta đến một cái xứ thâm trầm nhẹ nhàng và thanh thoát, để hồn ta được bay lên, để cái vòng tay bè bạn được nối dài thêm, để hồn người thêm rộng mở đón lấy vị ngọt cuộc đời, và cũng có thể là trái đắng, nhưng hồn nhiên là được... Chỉ mong thế thôi.

TB: Viết bài này chỉ với mục đích có ai đọc nó mà bỗng thấy yêu âm nhạc thế là mình thành công rồi... thêm một người, một người và lại một người nữa...

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2008

Cảm nhận mới về một bài hát cũ

Gọi là bài hát cũ vì nó được trình làng cách đây mười năm trước nhưng thực ra nó chẳng "cũ" tí nào, càng nghe nó càng mới và càng nghe nó càng thấm. Phải gọi rằng từ sau dòng nhạc trữ tình của Trịnh Công Sơn, đến một số bài hát của Thanh Tùng và Từ Huy, thì Quốc Bảo (QB) đã đem đến cho người nghe một "EM VỀ TINH KHÔI" hết sức tuyệt vời với đúng ý nghĩa của từ này.
Nghe đâu bài hát được viết năm 1991, lúc QB đang là giảng viên guitar của trường Cao đẳng Sư phạm TPHCM, viết tặng cho người yêu cũng là vợ ông (và quá tiếc cho Em về tinh khôi là hình như nay ông đã ly dị, em không còn về nữa mà đi... đáng buồn thay! Mong rằng đây chỉ là tin đồn của báo chí?) Bài hát viết về một cuộc tình đầy lãng mạn, tinh khôi. Sự tinh tế và vẻ đẹp trong vắt trong từng câu nhạc gắn liền với hình ảnh gợi cảm của lời ca trong Em về tinh khôi có sức quyến rũ đặc biệt: "Bàn tay em là cánh sen thơm ướp trong vùng đêm mái tóc…" đã làm nên thành công cho bài hát trong một thời gian dài, kể cả đến hôm nay, phải gọi là chưa có thêm sáng tác nào gây ấn tượng mạnh với tôi về giai điệu và lời ca bằng bài hát rất tuyệt vời này!
Bờ vai ơi đừng quá nghiêng nghiêng
Đánh rơi buổi chiều thơm ngát
Làn môi ơi đừng quá run run
Lỡ tia nắng hồng tan mất

Mới vào những câu mở đầu mà nó đã có sức gợi cảm rất mãnh liệt về ca từ và âm vận. Những con chữ tượng hình khiến cho những ai đã từng viết tình ca tôn ông là bậc thầy, cho dù ông cũng không phải là lão làng trong âm nhạc VN, bờ vai ơi xin đừng nghiêng mà làm rơi buổi chiều thơm ngát, buổi chiều thơm ngát ấy đang nằm trên vai nàng, làm cho buổi chiều ấy rơi đi uổng lắm, nó nhẹ như hơi thở và nó đẹp như mây chiều trôi...
Xin âu lo không về qua đây
Xin thương yêu dâng thành mê say
Xin cho ta nhìn ngắm lung linh
Từ đáy đôi mắt... rất trong

Để diễn tả cõi lòng thanh thản không âu lo, QB đã dùng các cụm nốt có cùng cao độ, tạo cho người nghe cảm giác bình yên: Xin âu lo... qua đây, xin thương yêu... mê say, cách diễn đạt này khá là tinh tế vì chỉ cần vài nốt nhạc cũng đủ nói lên sự yên bình thanh thản trong một buổi chiều đẹp.
Và thế là em đến trong đời. Khác với Từ Huy, ông diễn tả kỹ hơn về dáng dấp điệu bộ vì thực ra "Em về" mà, cái "em" ấy là của ông, đang về với ông nên ông cảm nhận nó với đầy đủ sắc hương nồng nàn của người con gái, khiến cho ta nghe mà tưởng như đang ngửi, đang cảm nhận được cái mùi hương ấy trong từng nốt nhạc đang len vào đâu đây...
Bàn tay em là cánh sen thơm
Ướp trong vùng đêm mái tóc
Nụ thanh xuân còn ấp e nơi
Nét xinh áo lụa thơ ngây

Không ngần ngại, ông vào thẳng chủ đề chính, dang rộng đôi tay hân hoan để đón em về và để được vui cùng em. Chỉ vui thôi chứ có cần âu yếm mãnh liệt gì đâu, thế nhưng nó vẫn xúc cảm đến mức người nghe không thể nào không tưởng tượng ra được những gì sẽ diễn ra sau đó... cho dù khổ nhạc trước ông cũng chỉ đề cập tới bờ môi ơi đừng có run mà làm tan tia nắng hồng đi thôi, chứ ông không đề cập nhiều đến những cử chỉ âu yếm gợi cảm khác, tinh khôi là vậy, nó trong sáng và nó trinh nguyên đến mức không ngờ.
Xin trăm năm em về tinh khôi
Đôi tay ta dang rộng hân hoan
Xin cho ta một khắc reo ca
Vui cùng em...

Thế nhưng đó cũng chỉ là xin thôi, chứ thật là em đã về đâu!? Do vậy nên ông cứ tưởng tượng ra nhiều tình huống khác bằng những giai điệu dồn dập hơn lên, khiến cho chúng ta sốt ruột mong chờ, sợ đánh mất đi những cảm xúc khi em về bên ta, ông cứ lập đi lập lại cụm từ Biết đâu... biết đâu... như sợ rằng mình vuột mất đi cái cảm xúc khi được gần người yêu, nghe vừa lãng mạn vừa trách móc.
Vì biết đâu có đôi lúc em xa vời vợi
Biết đâu có đôi lúc con tim nghẹn lời
Biết đâu có đôi lúc ta quên chờ đợi
Kề bên nhau quên một chiếc hôn

(Trời ạ, uổng quá!?)
Biết đâu sớm mai nắng nghe phơi cuộc tình
Biết đâu sớm mai gió tan cơn mộng lành
Biết đâu biết đâu đấy xin em lòng thành
Và xin cất lấy trái tim nay... nhớ nhung... phút giây

Nhạc vẫn cứ dồn dập như muốn níu kéo, như sợ đánh mất em đi bằng những ngôn từ tượng hình đến mức mãnh liệt như em thấy tim ta chật chội nên em tan đi cùng ánh sương, em cất cánh hóa thân cùng giấc mơ ở phương nào đấy thênh thang mây khói. Chỉ là biết đâu thôi, biết đâu tình huống xảy ra như thế thì chẳng phải là tuyệt vọng cho ông sao?
Vì biết đâu cánh mây trắng yêu em gọi mời
Biết đâu gió tha thiết mang em về trời
Biết đâu bỗng em thấy tim ta chật chội
Và em tan đi cùng ánh sương....
Biết đâu bỗng em thấy đôi chân mỏi mệt
Biết đâu bỗng em thấy sông Thương cạn kiệt
Biết đâu bỗng mưa nắng gieo tim buồn phiền
Và em sẽ cất cánh tung trời... hóa thân... giấc mơ
Và em sẽ cất cánh phương nào... thênh thang... mây khói...

Quả thật, bao nhiêu ngôn từ hay ho trên đời ông đã dùng hết cho nên tôi chẳng còn biết dùng thêm từ ngữ nào để nói lên cái hay của bài hát tuyệt vời này nữa... Thiết nghĩ bài hát này sẽ còn đứng vững rất lâu... rất rất lâu trong dòng nhạc đương đại Việt Nam và ngay cả trong hồn người. Xin cảm ơn Nhạc sĩ Quốc Bảo đã tạo cho tôi những cảm xúc thăng hoa này, chúc ông sẽ có được yên bình trong tâm hồn để có thể mang cho đời những món quà vô giá như Em về tinh khôi này.

Ngày em đến

Tối thứ sáu... Tập hát về... Mọi chuyện chuẩn bị cho Thánh Lễ PS ngày mai đã xong, ngoại trừ nỗi nhớ các con triền miên thì bây giờ là lúc mình cảm thấy trong lòng thanh thản nhất. Ngồi một mình, một laptop, một ADSL và một blog, không còn sự thoải mái nào hơn, và thế là mình nhớ đến một việc cần phải làm, đó là bài hát "Ngày Em Đến" của NS Từ Huy. Đối với những đứa con nhà mình thì chúng nó biết rõ bố thích bài này lâu rồi, nhưng đối với những ai mới vào thăm blog này thì sao nhỉ? Bạn đã nghe "Ngày Em Đến" chưa? Nếu chưa thì hãy nghe đôi lời cảm nhận của tôi nhé!
Bài hát Việt thì chúng ta có hàng vạn, nhưng "thấm" vào lòng người thì tôi nghĩ không nhiều. Mấy ai yêu trọn vẹn và sống trọn vẹn với một bài hát nghe qua rất đỗi bình thường, nhưng cái chất nghệ thuật được chắt lọc qua từng ngôn từ, từng ý nhạc của bài hát tôi nói ở trên thì quả thực, Ngày em đến là một tuyệt phẩm. Không phải vì tôi thích Từ Huy mà nói thế, vì thật ra đâu phải tất cả bài hát nào của ông cũng là hay cả đâu, nhưng nếu nhắc tới Ngày em đến thì phải gọi là nó đã làm cho cái thằng tôi đây rất thán phục. Nào, xin hãy bắt đầu thưởng thức bài hát tuyệt vời này cùng chúng tôi nhé!
Ngày em đến...
đôi mắt long lanh - thơ ngây - mơ màng...
Đấy, để mở đầu bài hát, tác giả cố tình đi từng cặp chữ, gợi cho người ta cái cảm giác thú vị như nhấm nháp từng ngụm cà phê một...
Ngày em đến...
đôi má hây hây - hương thơm - nồng nàn...

Cũng lại từng cặp chữ một rất tượng hình, khẽ cất tiếng hát là chúng ta sẽ tưởng tượng ra được ngay người em gái rất dễ thương, rất thơ ngây... đang bước đến... Cái hình ảnh ấy chỉ cần nghe lời ca là hiện ra rõ mồn một trong óc chứ không cần phải xem trên truyền hình mới thấy... (lắm lúc xem hình ảnh trên TV hoặc VCD còn phản cảm hơn những gì mình tưởng tượng ra nữa). Và cảm giác kế tiếp thì sao nhỉ?
làm mê say bao gã si tình
làm cho anh nhức nhối tâm hồn
buồn miên man thao thức suốt đêm... khuya.

Cái chữ đêm có chấm chấm của tôi có dụng ý đấy, nó không hát ngay là đêm khuya mà lại kéo dài chữ đêm ra một lúc rồi mới... khuya, nghĩa là cái anh chàng này sợ ai đó cướp mất người yêu của mình nên thao thức mãi, suốt cả đêm mà chẳng ngủ được, lại buồn nữa chứ, nhưng buồn miên man, buồn vu vơ, tội quá nhỉ?!
Rồi em đến...
Em đến bên anh cho anh ngỡ ngàng
Tựa như có
con suối đi qua trong tim nhẹ nhàng...

Thật tuyệt vời hai cái chữ nhẹ nhàng này, theo tôi, nhạc sĩ đã kết hợp một cách hài hòa về ngôn từ và giai điệu, hát hai từ nhẹ nhàng này nó trầm hẳn xuống làm cho tâm hồn mình nhẹ bay lên một cách rất thanh thoát, nhạc trầm xuống, hồn bay lên...
Và em nghiêng mái tóc mây bồng
và anh nghe trong gió thơm nồng
Thuyền anh theo con sóng ra khơi, ra nơi... nghìn trùng...

Có lẽ với khổ nhạc này tôi không còn gì để nói nữa, vì tự nó đã nói lên cái hay ho, cái ý nhị của từng lời nhạc, nhẹ như thơ và đẹp như mơ, đẹp đến nỗi ru mình trong suối tóc của nàng như bồng bềnh trên chiếc thuyền tình, để hòa với người yêu, sống với người yêu. Cái từ ra nơi... nghìn trùng ca lên tôi nghĩ hết sức tuyệt vời, nó nhẹ nhàng đắm thắm làm sao! nó êm xuôi như cuốn mình vào với lời ca rất tự nhiên và sâu lắng. Và thế là từ đây trở đi, dòng nhạc bỗng bắt đầu mạnh lên hẳn, vừa dồn dập vừa thúc bách, không còn nghỉ ngơi chậm chạp như khúc dạo đầu nữa
Thuyền anh đó, con sóng cuốn xô
thuyền anh đó, cứ mãi nhấp nhô
giữa biển khơi không bờ không bến
Thuyền anh đó, em cứ cuốn đi
Tình anh đó, em cứ cuốn đi, cứ cuốn đi, cứ cuốn đi, cứ cuốn đi...
theo em đời đời...

Quả thực, dòng nhạc dồn dập ở đây theo tôi khá là thành công, vì ý đồ của tác giả lúc đầu giới thiệu chậm rãi về người yêu của mình, sau đó, cuốn được vào mái tóc của nàng rồi thì anh ta tự tin lên hẳn, chấp nhận rủi ro trên biển tình, có cuốn đi cũng được, có chìm trong đó cũng được, miễn sao là được bên nàng (cũng khôn quá nhỉ? ai mà chẳng muốn vậy!)
Có cầm bút lên viết một bài hát thì mới thấy cái hay của người khác, cái khó của người khác khi viết ra được những dòng nhạc ấy. Bởi vậy khi thấy một bài hát tuyệt vời như Ngày em đến này, nó thấm trong tôi chặt còn hơn keo 504 nữa, nên chỉ cần nhẩm vài lần thì thuộc ngay, nhưng mà thôi, ca nhiều quá, nói nhiều quá người ta nói mình nói dai, mà dai - dài - dở là chuyện đương nhiên rồi. Thôi thì nếu ai chưa nghe, hãy thử một lần nghe để xem thử cảm nhận của tôi có đúng không nhé!

Tản mạn về một bài hát

Cứ mỗi sáng sau khi đi nhà thờ về thì mình lại vào blog, không gian mát mẻ, yên ắng và nhất là cõi lòng thanh thản, làm cho con người ta như muốn được nói một cái gì đó với chính mình, đúng hơn là với cái bàn phím trước mặt, vì ông già này mỗi lần gõ chữ phải nhìn vào bàn phím chứ không được nhanh nhẹn như các cháu ngày nay đâu, vào blog cũng là để sẻ chia với những người đồng cảm thỉnh thoảng click chuột ghé thăm, chắc là già trẻ lớn bé gì cũng đều có cả.
Dạo quanh một vòng thì nhận thấy một điều khá lạ, cư dân blogger Việt ngày nay hầu như là trẻ tuổi, chẳng thấy ai già như mình, hiếm hoi lắm thì mới bắt gặp được một tên tuổi cây đa cây đề là lớn tuổi, còn hầu hết thì toàn là bọn trẻ. Xin lỗi, gọi bằng bọn cho nó thân thiết chứ không phải khi dễ bọn này bọn kia đâu nghen các cháu, theo mình nhận định thì 99% blogger có độ tuổi từ 15 đến 40 chứ chẳng ai già như mình, hay là chúng nó bảo "già mà ham vui"? Biết đâu. Mà e là cũng đúng thật, tuổi tuy già, đã có cháu nội rồi nhưng tính tình cũng rất vui, nhất là khi bàn đến khía cạnh âm nhạc thì khá là hào hứng, sợ rằng bọn trẻ nói không lại mình nữa chứ.
Vâng, nay chợt nhớ ra một ý lạ, một bài hát mới đây của một tác giả mà theo tôi thì đây là một bài hát hay, giữa một rừng nhạc chợ đang vây quanh mỗi ngày trong cuộc sống. Chà, mới viết mà đã bận chuyện rồi, thôi thì chút xíu nữa tiếp tục, chỉ mới là khúc dạo đầu thôi mà! Và bây giờ tiếp tục đây. Bài hát tôi muốn nói đây theo tôi nghĩ thì chắc hầu như các bạn trẻ đều biết, một sáng tác của một anh bạn còn rất trẻ: Nhạc sĩ Mạnh Quân, anh mới 21 tuổi. Tôi biết thì với độ tuổi này, chắc chắn MQ chưa tốt nghiệp qua một trường âm nhạc nào, nhưng bài hát Thiên đường gọi tên của anh mà tôi muốn nói hôm nay quả thực là một bài hát rất hay, về ca từ cũng như giai điệu, đáng để cho một số nhạc sĩ có học vị khác quan tâm, mặc dù nó chỉ đạt giải Cặp ca sĩ thể hiện được khán giả yêu thích (Hà Anh Tuấn - Phương Linh) trong Bài Hát Việt 2006 vừa rồi mà thôi, nhưng xem ra giải nhất "Chuông gió" của Võ Thiện Thanh theo tôi chỉ phù hợp với một số ít người chứ nó không nằm trong quan điểm của đại chúng, số đông khán giả là những người trẻ, và bài hát cũng cần phải trẻ thì mới có thể thuyết phục được họ. Già như tôi bây giờ mà tôi cũng còn đứng về phía trẻ chứ đừng nói chi là chính họ. Tuy nhiên, việc chấm giải nhất nhì này nọ theo tôi chỉ mang tính hình thức, chưa kể đến việc ganh nhau trong số cây đa cây đề âm nhạc, tôi xin miễn bàn đến mà chỉ muốn nói đến bài hát này, đối với một tác giả trẻ như thế mà viết lên được những giai điệu, những lời ca như thế thì theo tôi thật đáng khen, rất đáng khen! Bây giờ chúng ta hãy cùng đi sâu vô một chút nhé!
Trước hết, nếu thích thì những bạn nào đang xem blog này có thể click vào đây để nghe Hà Anh Tuấn - Phương Linh trình bày bài hát này, còn nếu muốn download về máy tính của mình để nghe sau thì xin hãy click vào các nút cuối bài viết này.
21 tuổi! Thật không thể ngờ mới bằng tuổi ấy mà MQ đã viết lên những câu như thế này để mở đầu bài hát:
Trôi miên man về đâu một nhành hoa mới nở
Hoa vàng che lấp những con đường
Tìm cho ta một cảm giác bình yên
Ngày ấy tinh khôi và hồn nhiên
Ngày em ngủ trong trái tim,
Êm đềm quá…

Cực kỳ hay! Cái hay của câu mở đầu làm cho người hát phải chạy một mạch không ngơi nghỉ, có lẽ ý của MQ muốn người khác phải nhập vai một cách nhanh nhẹn chứ không lừ đừ như những bài hát khác: Tìm cho ta một cảm giác bình yên, ngày ấy tinh khôi và hồn nhiên... thế mà ngày ấy đã có em ngủ trong trái tim, êm đềm quá! Chữ êm đềm quá theo tôi trong bài hát này thật là tuyệt, vì đang lúc cao trào bỗng dưng nó chậm lại, thật là êm đềm...
Nhiều người nghe qua bảo rằng: Quái thật! Cái ông già HL này sao mà ca anh chàng MQ này đến thế? Hay là lăng-xê bà con đây? Ha ha! Không phải đâu! Ngày ấy tôi cũng sáng tác, cũng viết cho người yêu là phu nhân bây giờ đây, nhưng sao mà nó khó khăn với từng nốt nhạc thế, sao mà lời lẽ ca từ nó sáo thế? v.v và v.v... cho nên bây giờ nghe qua một anh chàng chưa bằng tuổi con mình sáng tác ra những giai điệu, những ca từ như thế thì tôi lấy làm quá bái phục, thử nghe tiếp nhé!
Em yêu anh ngả nghiêng, bồng bềnh niềm kiêu hãnh
Thiên đường xanh mướt gió trong lành
Cuốn vào đời anh làm em bất tận
Vô tình chúng ta thuộc về nhau
Ngàn kiếp sau...

Cái giọng nữ vừa nhập vai bỗng dưng sụt xuống 1 octave trong khổ nhạc này tạo cho người nghe một cảm giác vừa lắng dịu, vừa trữ tình, làm như con gái thì nhỏ nhẹ dễ thương lắm đấy? (thực ra thì số nhỏ nhẹ dễ thương này không được nhiều vì tôi thấy mấy cháu gái hồi này cũng "trầu cau" lắm đấy, không hiền đâu! có gì cho ông già xin lỗi!) Có phải thế không? yêu anh mà yêu ngả nghiêng (?) kiêu hãnh! ghê thật! kiểu này MQ nịnh chị em gái đây, song đó là đương nhiên rồi, chứ viết nhạc mà không biết nịnh thì ai mà hát cho? Nhưng cái nịnh này cũng hay, vì nịnh là cả một nghệ thuật mà! Có điều trong khổ nhạc này có 2 chữ hơi khó hiểu "bất tận" Anh làm em bất tận hơi bị tối nghĩa, hơi tiếc một chút, tuy nhiên, có một số bạn lại thích cái câu khó hiểu này, vì họ là môn đệ của phái "tưng tưng" mà, càng khó hiểu càng vui, càng thích, điều đó cũng chỉ vui thôi, không sao! Tưng tưng nhưng đừng làm bậy là được!
Tiếng dương cầm lãng du môi mềm xinh xắn
Là em như mùa đông được sưởi ấm
Là em như tình yêu vĩnh hằng
Sẽ không bao giờ chìm khuất
Giấc mơ được có em thiên đường gọi tên
Giấc mơ chúng mình cùng ước nguyện
Hãy yêu nhau biển trời xanh mãi...

Vâng, sau khi ngủ trong trái tim êm đềm rồi lại yêu anh ngả nghiêng thì giờ đây tác giả mới nhắc đến thiên đường của hai người, nghe mà tình tứ quá nhỉ? Song không đáng trách lắm, vì cặp đôi này cũng chỉ ước nguyện là được yêu nhau như biển trời xanh mãi thôi, có gì xa hoa lắm đâu? Cao trào của bài hát kết thúc không về Chủ âm mà lại ở Át âm 7 làm cho người nghe phải ngẩn ngơ, không biết bài hát đã kết thúc chưa? sau đó là Nà ná na... theo tôi hơi uổng vì cái nà ná na này không hiểu MQ muốn nói gì, có lẽ chỉ chắp vá dòng nhạc vào cho xôm để trở về chủ âm mà kết thôi. Tuy nhiên nghe trọn bài hát thì quả nhiên đây là một bài hát rất hay, không "bác học" mà cũng không phải "chợ", đáng ra phải giành được giải cao hơn những bài hiện có mới phải. Song thiết nghĩ tác giả MQ chắc chắn sẽ chẳng buồn tí nào đâu, vì ít ra vẫn còn có một "ông già" như tôi rất thích bài hát này của cháu, phải không MQ?
Xin tạm chấm dứt ở đây vì còn phải lo làm việc đã... Giá như một ngày có 25 giờ nhỉ? Ta sẽ dành 1 giờ phụ trội ấy để viết blog (tào lao!)

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2008

Nhạc Phạm Duy mà đi xin ư?

Đối với ai thì không bàn tới, nhưng đối với một người mang tầm cỡ "thời đại" như Nhạc sĩ Phạm Duy mà nói đến hai tiếng "xin - cho" khiến chúng tôi cảm thấy như đây là một sự xúc phạm khá là nặng nề đối với một con người như ông.
Đêm nay không ngủ được, vô tình lướt qua những trang báo cũ và đọc lại những mẩu tin về văn hóa cách đây cũng không lâu lắm, thì được biết rằng Sau ngày trở về của Nhạc sĩ Phạm Duy, các sáng tác của ông đang được các cấp thẩm quyền "cho phép" phổ biến bài này bài nọ do Cty văn hóa Phương Nam đứng ra "xin" cho ông. Hôm nay cấp phép được mươi bài, vài tuần sau lại được thêm dăm ba bài nữa... Xem tới đây tôi cảm thấy hết sức hụt hẫng và nhói đau, đau như chính mình là người trong cuộc vậy, cho dù tôi chỉ biết "đau" thay cho ông, đau thay cho số phận một con người.
Không cần phải lý luận dông dài, chúng ta cũng biết rằng, Phạm Duy là con người của lịch sử, ít ra là ở trong mảng văn hóa nghệ thuật, trong đó có âm nhạc. Những sai lầm của ông về quan niệm thời cuộc, đứng bên nào, chống lại bên nào, chúng tôi xin phép không nhắc tới, vì đây là một phạm trù hết sức bao la dành cho lịch sử phán xét chứ không phải chúng ta, chúng tôi chỉ muốn nói đến lãnh vực âm nhạc. Phạm Duy mà phải đi xin phổ biến nhạc cho mình à? Nghe qua thấy nhói đau là vậy. Ai là người dám cầm bút phê cho một cây đại thụ âm nhạc VN như Phạm Duy? Phải chăng là một quan chức làm công tác văn hóa nào đó? Anh ta chắc cũng phải biết rõ rằng âm nhạc VN có 2 cây đại thụ là Văn Cao và Phạm Duy, hai người này cũng là bạn rất thân với nhau, mà Văn Cao thì chúng ta đã biết, nói như Phùng Quán trong tập truyện "Ba phút sự thật" khi một ông khách hỏi Văn Cao là ai thì Phùng Quán trả lời rằng: "Ông ấy là một người đặt ra một bài hát mà khi bài đó hát lên thì tất cả mọi người đều phải đứng nghiêm, kể cả Cụ Hồ" (trích nguyên văn). Cây đại thụ thứ nhất là vậy, thế mà ngày nay, cây đại thụ thứ hai ấy phải đi xin một anh chàng quan chức nào đấy để được phép phổ biến nhạc của mình sao?
Văn hóa là những gì tốt đẹp nhất còn giữ lại được sau khi con người ta qua đời. Theo tôi, PD không chỉ là một nhạc sĩ mà ông còn là một nhà văn hóa nữa. Mấy ai trong chúng ta sống đến tuổi này mà chưa nghe nhạc của ông? Khi cất lên câu hát "Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói, có những cánh đồng cát dài, có lũy tre còm tả tơi... Ruộng khô, có những ông già rách vai, cuốc đất bên đàn trẻ gầy, có người cày thay trâu cày..." thì hầu như ai trong chúng ta cũng đều cảm nhận được cái hồn quê thấm đẫm theo từng lời ca, những lời ca và giai điệu có sức mạnh không thể nào chối cãi được. Đó là chưa nói đến những bài ca hết sức trong sáng của ông, chẳng hiểu vì sao đến giờ mà chưa "cho phép" hát: "Hôm nay em đi trời không có nắng, nhưng sao đôi má em lại bừng bừng. Nơi em đi qua lửa không bốc cháy, nhưng sao đôi má em như người say?..." Vì sao lại như vậy nhỉ? trong lúc một rừng nhạc chợ xuất hiện tràn lan làm xám đi tư duy của tuổi trẻ về cảm thụ âm nhạc thì tại sao những bài hát trong sáng này lại chưa được hát? Vì sao? Vì tác giả là PD à? PD có lỗi gì về những bài hát ấy? những bài hát ấy là của mọi người, theo tôi nó đáng được đứng vào những nơi trang trọng nhất trong lòng người. Chưa nói đến những bài hát chỉ mới cất lên đôi ba câu đã thấy cái hồn Việt trong đó: "Sóng vỗ miên man như câu ru êm của mẹ dịu dàng. Nước biếc mênh mông như đôi tay ôm của Mẹ trùng dương..." chỉ cần bao nhiêu đó thôi thì người nghe đã cảm thấy cái mênh mông bao la dịu dàng của Mẹ Việt Nam.
Mấy ai sáng tác được những bài ca sâu lắng như vậy? Thế mà phải đi xin phép ư? Thật là buồn cười... Chính ngay sự trở về của PD đã thấy ông dũng cảm và yêu quê hương như thế nào, cho dù trước đây ông có gì gì đi nữa nhưng một cây đại thụ như ông dám tuyên bố là tôi sẽ mang cả sự nghiệp tôi về với quê mẹ, đó không phải là điều đáng kính sao? Sự trở về của ông xét về mặt chính trị còn có giá trị bằng hàng vạn người khác. Phạm Duy mà còn quay về với quê mẹ Việt Nam, huống chi là ông này bà kia... Thế mà về đây ông hoặc là những người đại diện cho ông lại phải "xin phép" được hát những lời nhạc yêu thương sâu đậm như thế của mình sao? Nhạc của ai thì không nói, nhưng dòng nhạc của PD là cả một biển trời văn hóa. Tại sao chúng ta không nói thẳng ra là trong số hàng nghìn bài của ông, không nên hát bài này bài này vì lời ca còn không thích hợp với thời đại (chống đối chẳng hạn) còn bao nhiêu bài kia thì cứ việc hát, chứ đừng có hôm nay duyệt được mấy bài, hôm kia duyệt được mấy bài, nghe mà xót quá. Mà thiết nghĩ những bài hát chống đối ấy ngày nay có thuê thì cũng không ai dám hát chứ đừng nói là cần phải cấm. Đất nước ta hôm nay tốt đẹp như thế này, quê hương ta nay thắm tươi như thế này thì ca những bài hát chống đối kia chỉ thêm "lạc giọng". Không cần phải nói cấm thì cũng chẳng ai thèm hát. Văn hóa là những gì cảm nhận trong tư duy con người. Cấm chỉ là hình thức bên ngoài, chứ làm sao cấm trong đầu óc người ta được.
Giỏi lắm thì cây đại thụ âm nhạc PD chỉ còn sống thêm được mươi, mười lăm năm nữa là cùng. Hãy để tuổi già của ông thanh thản với những đứa con tinh thần của mình, những bài ca bất hủ, chứ đừng lập lại tấn tuồng "xin - cho" mà làm đau một tâm hồn trước khi về cõi vĩnh hằng. Đó không phải chỉ là mong muốn của riêng tôi mà cũng là mơ ước của rất rất nhiều người đam mê nhạc của ông, một dòng nhạc sâu đậm tình người không dễ gì có được trong thời đại chúng ta hôm nay.

Phụ lục:

Cảm nhận của Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý về Phạm Duy
(trích từ Vietnamnet)

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, một trong những cây cổ thụ trong khu vườn âm nhạc Việt Nam. Nổi tiếng trước cách mạng với ca khúc "Dư âm". Ông đã nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000 - giải thưởng cao quý nhất về văn học nghệ thuật - qua các tác phẩm: “Mẹ Yêu con”, “Vượt trùng dương”, “Bài ca 5 tấn”, “Tấm áo mẹ vá năm xưa”, “Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh”, “Dáng đứng Bến Tre”. Ở tuổi 82, sức khỏe đã có phần sút kém, nhưng người được công chúng gọi là “nhạc sĩ của mọi miền đất nước” ấy vẫn đang sáng tác. Ca khúc mới nhất của ông là tác phẩm “Về Pleiku” sau chuyến đi năm 2004 vừa qua. Ông nói rằng, người nghệ sĩ chỉ “sống” bằng tác phẩm, nếu không còn sáng tác, không còn cống hiến được gì cho cuộc đời thì coi như không còn “sống” nữa.
Ông đã gửi cho Người Viễn Xứ những dòng tâm tình về “một ông Việt kiều già”, vốn là bằng hữu cùng thời với ông trong làng sáng tác ca khúc. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc: (chú thích hình: Ns Phạm Duy trò chuyện cùng Ns Nguyễn Văn Tý đang ngồi)

Tôi vẫn luôn coi Phạm Duy là bạn, vì cùng công tác một thời - thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp; là anh, khi biết ông ấy hơn tôi 3 tuổi. Nhưng về mặt sáng tác, tôi coi ông ấy là một người thầy, vì chính ông ấy đã mở ra cho không riêng tôi mà cho các nhạc sĩ đàn em khác - con đường đưa dân ca vào ngôn ngữ âm nhạc mới. Trong thời kháng chiến chống Pháp, Phạm Duy là một nhạc sĩ đi vào quần chúng trước nhất. Tính quần chúng đậm đà trong ca khúc của Phạm Duy, vì ông ấy là người đầu tiên chuyển tải dân ca vào nhạc mới một cách nhuần nhuyễn, đằm thắm. Sẽ có người bảo rằng tôi quá khiêm tốn, Phạm Duy là Phạm Duy, còn Nguyễn Văn Tý là Nguyễn Văn Tý! Nhưng tôi nói rất thật lòng. Bởi khi tôi còn là một người sáng tác trẻ mới bắt đầu viết lách với một số tác phẩm đầu tay thì ông ấy đã nổi tiếng, đã có những tác phẩm đi vào lòng người, đã có những bài hát mà lứa thanh thiếu niên thời ấy ai cũng thuộc. Ví dụ như bài Nhạc tuổi xanh, Hát về anh thương binh, Thu kháng chiến... Vì thế suốt đời tôi coi Phạm Duy là bạn, là anh, là thầy.
Tôi xin kể một vài kỷ niệm giữa chúng tôi với nhau. Lúc ấy, chúng tôi đang ở Liên Khu 4. Đầu năm 1949, sau chuyến công tác vào Bình Trị Thiên về, Phạm Duy đã viết một loạt bài: “Về miền Trung”, “Bao giờ anh lấy được đồn Tây”, “Bà mẹ Gio Linh”… Liên Khu 4 đã tổ chức để Phạm Duy báo cáo tác phẩm. Băng - rôn quảng cáo đã cho treo khắp nơi thông báo về buổi báo cáo tác phẩm của Phạm Duy. Nhưng Phạm Duy đã ngã bệnh, ngày nào cũng có cơn sốt rét. Tôi đưa Phạm Duy về nhà mẹ tôi ở xã Kim Bảng, huyện Thanh Chương (tỉnh Nghệ An) để dưỡng bệnh. Biết tôi rất quý anh Phạm Duy, nên nuôi được một đàn gà, mẹ tôi cứ thịt dần để nấu cháo cho anh bồi dưỡng lấy lại sức. Đến sát ngày biểu diễn rồi mà bệnh tình của anh Phạm Duy chưa thuyên giảm. Nửa đêm, anh kêu tôi dậy và bảo: “Tý ơi, có lẽ Tý phải hát cho mình thôi. Mình mệt lắm, không thể hát được đâu…” Đến hẹn, chúng tôi tạm biệt mẹ lên Khu. Hôm ấy, trong sân đình làng ở xã Duy Tân, gần Đô Lương (Nghệ An) trước đông đảo khán giả, có đầy đủ các vị lãnh đạo Khu ủy, các cơ quan, đoàn thể trong Liên khu đến dự, tôi phải “báo cáo tác phẩm” thay cho Phạm Duy. Theo những “bí quyết” của Phạm Duy: buổi chiều ấy không ăn no, 2 giờ trước khi hát ăn 2 quả trứng la-coóc lòng đào thì sẽ có cảm giác no nhưng bụng không đầy, cổ lại trơn tru; trước khi hát một giờ thì ngậm một thìa muối sẽ không bị ứa nước bọt khi hát - nhờ vậy tôi thấy giọng rất đẹp và rất vang.
Anh Phạm Duy với bộ đồ bà ba đen, chiếc khăn rằn quàng cổ và cặp kính trắng quen thuộc, anh ngồi ngay ở hàng đầu cứ nhìn thẳng vào tôi. Theo chương trình, tăng (tempo) đầu tôi hát bài "Về Miền Trung" và "Bà mẹ Gio Linh", tăng sau hát bài "Ai xây chiến lũy" (của tôi) và bài "Bao giờ anh lấy được đồn Tây". Trước khi ra sân khấu tôi còn nghĩ cách làm cho chính anh Phạm Duy phải sợ một phen (vì xưa nay có bao giờ anh biết sợ là gì!). Có thể nói từ khi mở đầu bài “Về miền Trung” tôi luôn làm theo những gì anh đã dặn. Luôn luôn chứng tỏ mình là một học trò thông minh sáng dạ, hát những chỗ rất là Phạm Duy. Anh ngồi dưới nghe có vẻ hài lòng và rất đắc ý. Đến câu cuối của lần hai, trước khi kết thúc, tôi giở trò “giật gân”, cố ý đưa câu hát “yêu dấu” lên crescendo hú há kéo dài thật cao, sau đó hạ giọng xuống descrescendo thật thấp rồi mới hát nốt hai chữ “…xa xưa”. Không ngờ trò đùa của tôi làm anh sợ thật. Cái kính đeo ở trên mắt không hiểu sao anh cứ phải chỉnh lại hoài, mắt anh nhìn thẳng vào tôi không chớp. Sau tiếng vỗ tay kéo dài của khán giả, khi ban tổ chức tuyên bố giải lao 15 phút, anh Phạm Duy đã nhảy lên sân khấu, lấy khăn rằn của anh chấm từng giọt mồ hôi trên mặt trên cổ cho tôi, mồ hôi ở trán anh cũng đổ ra không ít. …Những bài hát của Phạm Duy lúc đó là những bài hát mang tính chính trị sâu sắc và gần gủi quần chúng vì chất dân ca: vừa mang tính thời sự, tính chiến đấu vừa tràn đầy tình cảm yêu quê hương, nên dân miền Trung hồi ấy không ai là không thuộc.
Trong “gia tài” của Phạm Duy, có những tác phẩm mà qua lăng kính của mình ông đã nói lên những triết lý sâu sắc. Chẳng hạn như “Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà khóc với cười”… Công tâm mà nói, trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để đời và mãi mãi còn trong lòng người Việt Nam qua nhiều thế hệ.
Riêng bản thân tôi, tôi đã học ở Phạm Duy 2 điều: Thứ nhất, là việc đưa dân ca vào trong ca khúc chính trị. Thứ hai, là việc chỉ phát triển tính nghệ thuật trong ca khúc mà không dính đến chính trị - để tác phẩm có thể vượt khỏi những cột mốc địa lý và những giới hạn về thời gian. (Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Phạm Duy là người đầu tiên viết các tác phẩm chỉ thuần về tính nghệ thuật mà không mang tính chính trị. Những bài tình ca của Phạm Duy da diết và lãng mạn, nhưng chỉ làm cho người ta man mác buồn mà không ủy mị. Ví dụ như “Nghìn trùng xa cách”, “Bên cầu biên giới”…)
Bài “Mẹ yêu con” của tôi sở dĩ được nhiều người ưa thích vì trong nó nói đến 2 tình mẹ: một bà mẹ đã rứt ruột sinh ta ra, và một bà mẹ tổ quốc - trong dòng chảy bất tận của thời gian đã sinh ra những đứa con, lớn lên và làm nên lịch sử. Có một thời, có người nói “về việc đưa dân ca vào trong ca khúc thì Nguyễn Văn Tý chỉ là “cái đuôi” của Phạm Duy”. Bởi thế, đi đến đâu tôi cũng tìm tòi và học thuộc dân ca của vùng đó. Từ đó tôi mới sáng tác được những tác phẩm gắn với dân ca từng vùng quê, nói lên chính tiếng nói, chính hơi thở của dân địa phương. Cho nên đã có người gọi tôi là “Nhạc sĩ của mọi miền quê”. Nhưng thật ra, đối với tôi, Phạm Duy vẫn là nhạc sĩ ưu tú nhất trong việc chuyển tải dân ca Việt Nam vào trong ca khúc.
Về tính cách của Phạm Duy, tôi thích và mê ông ấy ở cái tính nghệ sĩ. Lúc nào ông cũng coi trọng nghệ thuật. Ai hiểu nghệ thuật thì ông ấy rất yêu, rất quý. Ai mà không hiểu nghệ thuật thì ông ấy xem thường. Còn cái mà tôi không ưng lắm ở ông là ông hay nói quá lời về mình hoặc về người khác. Điều đó nó làm méo mó cách nhìn của ông, làm ông thiếu khách quan trong nhận xét. Có người bảo ông tự cao, tự đại, cứ xem mình là người tài giỏi, cái của mình là số một không ai qua được. Tất nhiên, như ông bà ta nói “người có tài thường hay có tật”. Phạm Duy là một người có tài, không thể phủ nhận điều đó. Cho nên, tôi biết người ta sẽ tha thứ cho ông ở cái tật này, và tôi, mặc dù không thích nhưng tôi cũng sẽ tha thứ cho ông về cái tật ấy.
Những năm trước đây, trong một bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường, có một đoạn kể rằng, các bà mẹ Gio Linh còn sống đã hỏi: “Thằng Duy nó đi đâu mà bao năm nay biền biệt không thấy nó đâu?!”. Có nghĩa là, các mẹ vẫn thương Phạm Duy, vẫn coi Phạm Duy là con như thuở nào. Được các bậc bề trên như là các mẹ già vẫn thương quý, vẫn âu yếm mình, đó là một hạnh phúc lớn lao của người nghệ sĩ mà không phải ai cũng có. Tôi biết, đối với cách mạng, Phạm Duy có nhiều nỗi đau, mà không phải ai cũng hiểu. Nhưng tôi nghĩ, chính sự yêu thương của quần chúng sẽ bù đắp tất cả, sẽ xoa dịu mọi vết thương.
Thật ra, với những người phải sống tha hương, mặc dù cuộc sống xứ người có tiện nghi đầy đủ đến đâu thì trong lòng vẫn nhớ thương, vẫn ray rứt. Với nghệ sĩ thì niềm ray rứt nhớ thương ấy càng thêm sâu sắc. Đối với những người đang ở tuổi bóng xế thì ai cũng mong được trở về cố lý, được có cuộc sống yên tĩnh, an vui nơi quê nhà. Các cụ phụ lão thì thường sống với kỷ niệm nhiều hơn với tương lai. Với một ông Việt kiều ở cái tuổi 84 già nua như Phạm Duy thì cuộc sống bên Mỹ nó ồn ào như thác lũ. Có lần về Việt Nam, gặp tôi ông tâm sự: “Tôi sống ở Mỹ bao nhiêu năm nhưng tâm hồn và trái tim vẫn ở Việt Nam. Bà ấy mất rồi, tôi chỉ sống với con. Trong số con tôi, có đưa nào về nước thì tôi sẽ theo về”. Và ông chỉ có ước muốn được sống những ngày cuối đời trên quê hương… Tôi nghĩ đó là tâm trạng chung của những kẻ viễn xứ, chứ không riêng gì nhạc sĩ Phạm Duy.
Nghĩ về Phạm Duy, tôi cầu mong ông ấy sớm được về với Tổ quốc, sống những năm tháng cuối đời trong sự yên tĩnh và trong sự thương yêu của quần chúng. Chỉ mong Đảng và Nhà nước đừng thành kiến, xóa bỏ những định kiến (nếu có) đối với nhạc sĩ Phạm Duy và không “tính sổ”- bởi nếu phải “tính sổ” thì có lẽ chỉ nên tính với những Khác… Nhưng, qua hệ thống truyền thông, tôi biết chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước đã rất cởi mở, chỉ hướng đến công tác Đại đoàn kết toàn dân tộc và hướng đến công cuộc xây dựng đất nước. Đây là tư tưởng của Bác Hồ. Nếu không đại đoàn kết làm sao mình thắng Tây, thắng Mỹ?!
Trong cuộc đời, có những khái niệm mang tính “di động”. Nhạc cũng như con người. Nó sống với từng thời kỳ. Trong thời kỳ đầu chống Pháp, tuy có một số nhạc sĩ tên tuổi, nhưng Phạm Duy chiếm vị trí hàng đầu vì tác phẩm của ông có tính thực tế, tính thời sự, lời bài hát thì cũng rất hay và đậm đà chất dân ca… Mà cái thời ấy đã qua lâu rồi. Ông bà ta nói “Ăn theo thuở, ở theo thì”. Nhưng, phải biết ghi nhận công lao của người đi trước thì mới biết ghi nhận công lao của người đi sau. Nếu ai đó đem so thế hệ đi sau với thế hệ đi trước thì sự so sánh đó là điều bất cập, bởi vì không thể nào so sánh được. Thời xưa khác, thời bây giờ là khác. Hiện tại, chúng ta đang sống trong thời kỳ hòa bình và xây dựng. Mọi người đều hướng về mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cho nên, ai cùng có lòng yêu nước, cùng mục đích xây dựng quê hương thì ta bắt tay. Phạm Duy là một nhạc sĩ đã từng trải qua nhiều giai đoạn sống. Cho nên, nếu ta biết cách khai thác ở ông tình yêu quê hương đất nước thì ông hoàn toàn còn là một người rất có giá trị trong giai đoạn hiện nay, ông sẽ có ích cho cuộc đời hiện nay. Còn những tác phẩm ông đã viết ở giai đoạn trước thì cũng phải được tận dụng. Những bài ca ngợi quê hương, hòa bình, tình yêu đôi lứa thì tại sao không phổ biến? việc gì phải bỏ đi?!
Hòa bình đã 30 năm, non sông đã liền một dãy, thì lòng người sau 30 năm xin đừng nên hằn thù, chia cắt. Hãy tạo điều kiện cho những người có tài năng được trở về với đất mẹ và sớm có một đời sống ổn định, yên lành, cùng với quần chúng cách mạng được hít thở bầu không khí hòa bình và cùng hướng đến tương lai của dân tộc.
Hiện tại, lớp nhạc sĩ già nua như chúng tôi còn lại được mấy người? Và có được mấy người vẫn còn sáng tác, còn cống hiến cho đời bằng tác phẩm? Ngẫm lại, cái gì ít - là hiếm, mà đã hiếm thì phải biết quý!
(2007)