Hiển thị các bài đăng có nhãn cuộcsống. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cuộcsống. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 10 tháng 12, 2008

Rác rưởi

racruoi Nhà của tôi nằm ở mặt tiền quốc lộ, cũng là đại lộ có lẽ là đẹp nhất nhì trong thị trấn. Dải phân cách ở giữa rộng 2m trồng đủ loại hoa rất đẹp. Giờ này ở thành phố đất đắt hơn vàng, nên chưa chắc có con đường nào đẹp và rộng thênh thang như đường trước mặt nhà tôi đâu à nghen!

Và cũng để duy trì cái đẹp đó nên công nhân công trình công cộng mỗi tuần tỉa lá một lần, mỗi ngày quét rác có khi cả sáng lẫn chiều cho đường và lề đường sạch đẹp, nhìn rất bắt mắt. Sức sống mới của xã hội dần dần hiện hữu, sáng sủa và thanh nhàn, cuộc sống người dân mỗi ngày một khá lên rất rõ nét. Được đẹp như vậy cũng là công sức mồ hôi của anh chị em công nhân vệ sinh chăm chút từng tí một. Những người ở nhà mặt tiền như tôi lo nhìn theo gương ấy mà học, một hạt nhãn hay một mảnh rác nhỏ nhớ bỏ vào thùng rác trước nhà, cũng là một cách đỡ đần cùng anh chị em, cho mồ hôi của họ bớt đi phần nào.

Và cũng vì cuộc sống khá hơn nên nhìn trên đường, xe con qua lại loang loáng, dân ta bắt đầu giàu rồi. Đại gia cả công lẫn tư mọc lên như nấm, khó mà đếm cho xuể.

Chiều hôm qua ngồi vẽ hoài mỏi lưng quá nên bước ra đường vươn vai cựa quậy một chút cho nó dẻo người, đúng lúc đó thì một chiếc Inova phóng cái vèo qua, vì cửa kính xe họ mở nên tôi nhìn rõ bên trong có các vị mặt đỏ gay như vừa vui chơi ở đâu về, định quay vào nhà thì nghe tiếng loảng xoảng, từ trên xe quẳng xuống mặt đường ba bốn cái lon Heineken vừa uống xong, suýt chút nữa thì văng vào chị công nhân vệ sinh quét rác đứng ở gần đấy.

Tôi không kịp nhìn cái số xe ấy để biết là xe của đại gia nào, nhưng rõ ràng những thằng giàu có này không được học những bài học vỡ lòng về cộng đồng và lòng nhân ái, chúng nghĩ rằng quanh chiếc xe hơi bóng lộn của chúng đều là chốn rác rưởi cả nên chúng cho rác của chúng vung vãi đến vô tư. Và cũng vì không được học nên chúng được coi như những thằng mất dạy trên đời, cho dù chúng giàu có, bạc tiền thừa mứa như những gương mặt đỏ căng ra vì bia rượu và gái gú em út, nhưng chúng là những kẻ nghèo tình người, nghèo văn hóa. Chúng không nghĩ rằng chị công nhân vệ sinh đang còng lưng đứng đó là vì ai. Ngày nay bọn mất dạy ấy vẫn còn khá là nhiều như rác rưởi vậy, thấy mà đau cả lòng.

Tôi bước đến định hỏi có trúng chị chỗ nào không nhưng chị chỉ hơi nhăn mặt một tí, bảo rằng không sao, rồi chị cúi xuống lượm mấy cái vỏ lon bia bỏ vào một cái bao nhỏ để thu gom lại bán cho ve chai. Tôi chào chị và bước vô nhà, nén một tiếng chửi thề, tự dưng thấy mắt mình rưng rưng giùm thay cho chị.

Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2008

Tôi là Hướng Đạo Sinh

Tôi cố tình viết hoa chữ Hướng Đạo Sinh mặc dù nó là một danh từ chung. Tôi viết hoa bởi vì tôi yêu quý nó. Mà không phải riêng tôi, thiết nghĩ bất kể những ai đã từng tham gia hướng đạo đều cùng có những cảm nghĩ như tôi. Phong trào Hướng đạo đã để lại trong lòng mỗi người những cảm nhận rất khó quên, những đức tính tốt mà chúng ta đã học được từ một người Hướng Đạo Sinh đã mãi mãi ghi dấu ấn trong cuộc đời làm người chúng ta, dù cuộc đời có thăng trầm thế nào đi nữa thì cái Tinh Thần Hướng Đạo vẫn trường tồn, vẫn bất diệt là thế.
Thuở còn tuổi thiếu niên, tôi được may mắn tham gia phong trào hướng đạo từ năm 1969 đến 1972, chỉ ba năm thôi nhưng 3 năm ấy phải gọi là quãng đời đẹp nhất của tôi khi Hướng Đạo dạy chúng tôi rất nhiều điều, biết hòa mình sống với thiên nhiên khắc nghiệt, biết làm mọi việc vì người khác, biết cách xoay sở trong lúc hoạn nạn khó khăn, cho mình và cho người. Những kỷ niệm ấy, những bài học ấy là vô giá cho mỗi đời người. Tôi tham gia và lên tới Đội trưởng nhất (3 vạch trắng trên túi) thì phải nghỉ để tập trung cho việc học, vì đang ở trong thời chiến, không cố gắng học mà thi rớt thì coi như tương lai đi đứt.
Mấy chục năm trôi qua, mỗi lần gặp ai đó biết mình là hướng đạo thì một thứ tình cảm phát sinh trong tim khiến tự dưng mình thấy gần gũi và coi nhau như anh em, chỉ cần vô tình huýt gió điệu nhạc Là la lá la là la lạ, lạ lạ la... thế là biết ngay anh bạn ta là Hướng Đạo Sinh đây rồi, đưa tay trái ra bắt và được đáp lại, thế là coi nhau như anh em, có thể xả thân vì nhau là thế.
Nay sẵn có blog, tôi sưu tầm được nhiều bài viết về lịch sử Hướng Đạo nên cũng muốn ghi lại đây để mà nhớ mãi những kỷ niệm đẹp trong đời. Tuy tuổi đã lớn, óc đã mòn, nhưng cái tinh thần hướng đạo vẫn tươi mới như ngày tôi được tuyên hứa tại Chí Linh Vũng Tàu năm 13 tuổi. Mong sao bạn bè và anh em ta cũng vẫn mãi nhớ cái thời tươi đẹp ấy nhé, và quan trọng là phải cố giữ cho được cái tinh thần hướng đạo mà Bi Pi đã truyền cho chúng ta, để sống cho trọn ba tiếng Hướng Đạo Sinh như chúng ta đã tuyên hứa ngày nào.

VÀI NÉT VỀ PHONG TRÀO HƯỚNG ĐẠO

Huân tước Baden Powell được xem là người thành lập Hướng Đạo, là Ông Tổ của Hướng Đạo Sinh trên toàn thế giới. Ông sinh ngày 22/2/1857, là một vị tướng lỗi lạc trong quân đội Anh, Hướng Đạo Sinh (HĐS) thường gọi thân mật ông là "BP", đọc là Bi Pi. Trở về từ Xi-xin, nơi có những chàng thiếu niên trẻ tuổi dũng cảm, ông đau lòng trước hiện tượng thanh thiếu niên Anh sống dễ dãi, lệ thuộc, lười biếng, ươn hèn, ỷ lại và không đủ nghị lực đối mặt với khổ cực. Để rèn luyện nên những con người đủ nghị lực, tâm trí và sức khoẻ để phục vụ đất nước, năm 1907, ông đã tổ chức trại hướng đạo đầu tiên tại đảo Brownsea nước Anh. Khai sinh ra phong trào sinh hoạt thanh thiếu niên có phạm vi toàn cầu và đã có những dấu ấn riêng cho đến ngày nay. Suốt ngần ấy năm, phong trào hướng đạo đã đạt được những thành tựu rất to lớn. Trải qua bao biến cố của lịch sử, tự thích ứng và mang nét riêng của những quốc gia nó đi qua, hướng đạo đã khẳng được vị trí số 1 của nó và ngày càng mạnh mẽ. Là cái nôi của những kỹ năng sinh hoạt thanh thiếu niên: morse, semaphore, mật thư, nút dây... là nơi cất giữ và phong phú thêm nguồn tư liệu dồi dào giúp con người có thể thích ứng và đối mặt với những khó khăn, thử thách trong cuộc sống.

LỜI HỨA CỦA HƯỚNG ĐẠO SINH

Người Hướng Đạo Sinh khi tham gia sinh hoạt "phải" tự nguyện và tự giác tuân thủ những đều ràng buộc trong tổ chức. Khi được chấp nhận làm một người Hướng Đạo Sinh chính thức trong lễ Tuyên hứa, người ấy cần phải trịnh trọng đọc và quyết thực thi Lời Hứa Hướng Đạo như sau:

- Tôi xin lấy danh dự của tôi mà hứa rằng, phải cố gắng hết sức:
1. Trung thành với Thượng Đế và Tổ Quốc tôi.
2. Giúp đỡ mọi người bất cứ lúc nào.
3. Tuân theo luật hướng đạo.

LUẬT HƯỚNG ĐẠO

1. Hướng đạo sinh trọng danh dự, ai cũng có thể tin vào lời nói của hướng đạo sinh.
2. Hướng đạo sinh trung thành với Tổ Quốc, cha mẹ và người cộng sự.
3. Hướng đạo sinh giúp đỡ mọi người bất cứ lúc nào.
4. Hướng đạo sinh là bạn của tất cả mọi người và xem các hướng đạo sinh khác như anh em ruột thịt.
5. Hướng đạo sinh lễ độ và liêm khiết.
6. Hướng đạo sinh thương yêu các sinh vật.
7. Hướng đạo sinh vâng lời cha mẹ, huynh trưởng và không biện bác.
8. Hướng đạo sinh gặp khó khăn vẫn vui tươi.
9. Hướng đạo sinh tằn tiện của mình và của người.
10. Hướng đạo sinh trong sạch từ tư tưởng, lời nói cho đến việc làm.

LUẬT KHĂN QUÀNG

1. HĐS trọng khăn quàng như chính danh dự của mình.
2. HĐS khi đeo khăn quàng không đến những nơi tửu quán.
3. HĐS khi đeo khăn quàng không được ngồi trên phương tiện do người hoặc súc vật kéo.
4. HĐS khi ra khỏi bầy hoặc đội phải trao lại khăn quàng cho huynh trưởng.

Ý NGHĨA MỘT SỐ BIỂU TƯỢNG CỦA HƯỚNG ĐẠO

Từ một câu chuyện khi xưa, có một thiếu phụ gặp ngài huân tước Baden Powell, trên áo ông thêu chữ viết tắt tên mình "BP", người ấy ngạc nhiên và nói với ông: "Be Prepaired?" (Sắp sẵn). Huân tước ngạc nhiên và thấy ý tưởng của người thiếu phụ ấy rất hay, từ đó, ông lấy câu đó làm khẩu hiệu chính của người Hướng Đạo Sinh.
Người Hướng Đạo sinh, khi gặp nhau, sẽ giơ tay phải lên chào và đưa tay trái ra bắt tay nhau. Hành động bắt tay trái này là một điển hình thú vị trong quá khứ. Người chiến binh, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm khiên, thường khi hai chiến binh gặp nhau, họ sẽ bắt tay phải với ngụ ý như: "Tôi đây chả có vũ khí đâu, hãy tin tôi!" Còn người HĐS thì khác, mặc dù không quen biết, họ vẫn luôn tin tưởng nhau vì có cùng chí hướng và mục đích sống, và họ sẽ bắt tay trái để thể hiện niềm tin! Believe!
Ngay cả lối giơ tay phải lên chào như hình vẽ cũng có ý nghĩa riêng của nó. 3 ngón giữa giơ lên với tâm niệm trong mỗi HĐS luôn nhớ và thực hiện 3 lời hứa. Ngón cái đè lên ngón út cho thấy người mạnh phải luôn luôn che chở và giúp đõ kẻ yếu! Một tư tưởng sống rất tích cực! và đây cũng là dấu hiệu để những người HĐS trên thế giới có thể nhận ra nhau.
Hoa bách hợp (huệ tây) là một biểu tưởng cao quý cho phong trào hướng đạo thế giới. Hoa bách hợp hướng đạo có ý rằng: 3 cánh hoa lớn phía trên ý nhắc nhở 3 lời hứa, 3 cánh hoa bé ở dưới ý nói về 3 ngành của Hướng Đạo, nút thắt tượng trưng cho sự đoàn kết của những người HĐS và nút dẹt nhắc nhở người HĐS mỗi ngày làm một việc tốt!

CƠ CẤU CẤP HIỆU VÀ TỔ CHỨC HƯỚNG ĐẠO

Ban đầu, một thanh thiếu niên khi tham gia phong trào, người ấy sẽ được học những điều luật, những kỹ năng cơ bản và sau một thời gian sẽ được làm lễ trao khăn quàng. Thời gian sau đó được thử thách trong một trại hè lớn, hoặc hơn, người ấy sẽ được phép tuyên hứa và thăng cấp tân sinh, chính thức trở thành một HĐS thực thụ! Để chuẩn bị cho buổi lễ tuyên hứa thiêng liêng (thường được tổ chức trong trại, trong rừng...) người HĐS phải trải qua một lễ tĩnh tâm vào nửa đêm bên ánh lửa giữa những huynh trưởng. Họ sẽ được kể và nói hết những gì họ nghĩ về hướng đạo, về cuộc sống bây giờ và tương lai của họ, sau đó các huynh trưởng sẽ khuyên học một số kinh nghiệm và những điều hay khi tham gia hướng đạo. Sau đó, trước khi bình minh ló dạng, họ sẽ được tập hợp và tổ chức tuyên hứa. Buổi lễ diễn ra vào lúc rạng sáng, người HĐS nghiêm trang lần lượt tay trái đặt lên cờ Đạo, tay phải giơ lên chào theo kiểu hướng đạo và tuyên 3 lời hứa, khởi đầu cho cuộc sống của một Hướng đạo sinh.
Ngoài những danh hiệu chính, người HĐS còn được phong những danh hiệu về chuyên môn để nhắc nhở họ phấn đấu và xác nhận các khả năng riêng biệt của từng người.
Về cơ cấu, HĐS gồm 3 ngành:
1. Ngành Sói: Ý chỉ những cô cậu sói con, tuổi dưới 11, tham gia những hoạt động vui chơi là chính, thúc đẩy sự phát triển toàn diện của trẻ. Sói con đeo khăn quàng màu vàng, có luật, cách chào và bài hát riêng.
2. Ngành Thiếu: Những thanh thiếu niên độ tuổi từ 11 đến 15, bắt đầu chính thức tham gia hoạt động cơ bản của HĐS, và là ngành có số lượng đông nhất. Thiếu sinh đeo khăn quàng màu xanh lá cây, tuân theo lời hứa và luật hướng đạo, hát bài hát hướng đạo.
3. Ngành Kha: Độ tuổi trưởng thành, từ 15-18, đeo khăn quàng màu đỏ ý chỉ sự nhiệt huyết. Những hoạt động của ngành Kha mang tính chuyên nghiệp và gian khổ hơn hết.

TRẠI HƯỚNG ĐẠO

Trại hướng đạo là một bài trắc nghiệm khách quan nhất về thực tiễn những gì người HĐS học được và là một cơ hội để thử thách bản lĩnh của người HĐS. Trại hướng đạo thường được tổ chức ở những nơi khắc nghiệt, rừng sâu núi thẳm... và không hề có sự hiện diện của văn mình loài người để trui rèn nghị lực vượt qua khó khăn thử thách và tự tồn tại. Người HĐS có thể mang theo những vật dụng tối cần thiết để phục vụ cho trại. Sau những đợt trại lớn, người HĐS có cơ hội thăng cấp và chuỵên hiệu, và có một logo biểu trưng cho từng trại và thường được may vào sau lưng áo, người HĐS có nhiều logo chứng tỏ họ là một người có kinh nghiệm đi rừng và kỳ cựu! Trong đợt trại, các Tráng (anh lớn) và các Trưởng sẽ tổ chức nhiều cuộc thi, trò chơi lớn và những thử thách khó khăn để các HĐS vượt qua! Phần thưởng sẽ là danh dự chứ không là gì khác, vì có gì quý hơn điều ấy chứ!

Trải qua biết bao thăng trầm thời cuộc, dù cho ở bên này bên kia, miền Bắc hay miền Nam, cái tinh thần hướng đạo vẫn như một dòng máu nóng ấm chảy trong huyết quản từng người, nối kết nhau như một thứ tình thân ruột thịt như anh em một nhà. Các tên tuổi lớn như Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu, Trần Duy Hưng, Nguyễn Hữu Đang, Lưu Hữu Phước, Tôn Thất Tùng, Võ Thành Minh, Phạm Ngọc Thạch... ở miền Bắc, cũng như Trần Văn Khắc, Trần Văn Tuyên, Cung Giũ Nguyên, Phạm Biểu Tâm... ở miền Nam đều là các Huynh trưởng Hướng đạo nổi tiếng, thế mà cũng vì những lý do riêng hoặc cách nhìn nhận đánh giá riêng mà kể từ sau 1975, phong trào Hướng Đạo Việt Nam không còn được phép hoạt động nữa. Nghe đâu hiện nay cũng có một số đoàn thể do Nhà nước quản lý cũng bắt đầu tập tành bắt chước lối sinh hoạt của Hướng Đạo Việt Nam khi xưa. Điều đó cũng đã khẳng định sự đúng - sai, xấu - tốt như thế nào trong lòng mỗi người rồi.
Việc nhìn nhận đúng sai xin hãy để lịch sử phán xét. Tuy nhiên, một cảm nhận trong tôi có vẻ không bao giờ thay đổi, đó là những ai đã từng là một Hướng Đạo Sinh, chắc hẳn trong lòng mỗi người sẽ nhớ mãi đến cái tình anh em hướng đạo với nhau không kể thân quen hay xa lạ, nhớ mãi đến những lời hứa hôm nào khi tuyên hứa trước cờ, và cái lời hứa ấy, chắc hẳn sẽ là những lời hứa đẹp nhất trong đời người. Cho dù không còn phong trào hướng đạo nữa, nhưng mỗi khi đối mặt với cuộc sống gian nan với nhiều cạm bẫy, với nhiều sự tha hóa, đớn hèn, nịnh nọt xấu xa vây quanh, chúng tôi tin rằng, âm vang lời hứa năm xưa vẫn vang vọng mãi trong lòng chúng ta để nhắc nhở chúng ta biết quý trọng những gì cao đẹp nhất của đời người:
Tôi xin lấy danh dự mà hứa rằng...
Tôi xin lấy danh dự mà hứa rằng...
Vâng, mãi đến nay, tôi vẫn còn giữ lời hứa ấy!

Ngục tù lương tâm

Tù ngục có mặt trên thế gian này thiết nghĩ chắc cũng đã lâu lắm rồi, có lẽ từ khi con người biết sống quần tụ với nhau tạo thành xã hội thì tù ngục cũng đã xuất hiện theo đà phát triển của đời sống, có mở rộng tầm mắt, có làm ra của cải, có biết hưởng thụ thì cũng có tội phạm, mà có tội phạm thì có tù ngục, vì đó là phương thế khống chế của nhà cầm quyền, thay mặt xã hội để mưu cầu sự an ninh cho cuộc sống cộng đồng. Bất kể thời nào cũng có tù ngục, mỗi thời mỗi khác, mỗi nơi một kiểu, nhưng đó là những khái niệm dành cho các nhà chính trị và xã hội học nghiên cứu, khác với điều chúng tôi định nói ở entry này, vì ở đây chúng tôi muốn nói đến một loại ngục tù khác, đó là ngục tù của lương tâm con người.
Thật vậy, phàm là con người, ai cũng có những ngục tù của riêng mình, chiến thắng nó hay không? vượt qua nó hay là bị nhốt chặt trong nó, đều là do chính mình mà thôi. Ngục tù đó là những ham muốn, là những ganh ghét đố kỵ, là những kiểu hợm mình khoe mẽ, là những thói xấu ta biết đấy, ta không muốn làm, nhưng ta vẫn cứ làm, vẫn cứ bị trói buộc trong ngục tù của chính ta.
Chẳng ai tài giỏi gì mà dám nói tôi không có loại ngục tù ấy, vì trong mỗi con người cái điều thiện điều ác nó hay đi song hành cùng nhau, lúc thì bên này mạnh hơn, lúc thì bên kia mạnh hơn, do vậy mà con người ta thường bị dằn vặt bởi cám dỗ, ham muốn, u mê rồi sinh ra lầm lạc, tự mình nhốt mình vào trong tù ngục của chính mình. Thí dụ như thấy bạn mình thành đạt hơn mình thì mình sinh ra tức tối thù hằn. Thấy vợ bạn đẹp hơn vợ mình liền sinh lòng ham muốn, rồi tìm cách ruồng rẫy, xa cách, trách móc, nhạt nhẽo với vợ mình. Thấy chồng người ta siêng năng giỏi giang thì tủi hổ vì sao mà chồng mình tầm thường như vậy, mà không biết tìm cho ra cái tốt cái trội của chồng mình. Thấy thiên hạ giàu hơn mình thì sinh ra hằn học trách móc ông Trời sao bất công. Thấy người ta giỏi hơn mình thì mình bèn kiếm cách hạ bệ, nói xấu, vu oan. Thấy người ta làm nhiều việc tốt hơn mình thì mình sinh ra ganh ghét bực dọc. Thấy người ta có nhiều người quý mến hơn mình thì mình sinh ra ganh tị, ghen ghét, nói xấu. Thế đấy! Ngục tù của con người là ở chỗ ấy đấy. Ham muốn, đòi hỏi không thành rồi sinh ra ganh ghét, tự mình làm điều xấu xa tội lỗi là vậy. Ngục tù là vậy.
Lật bài ngửa ra đi! Ta đã ở trong ngục tù ấy bao năm rồi? Ta còn định trói chặt trong ấy bao lâu nữa? Papi tui đây nào cũng có hay ho gì đâu, cũng luôn bị ba cái xiềng xích ấy nó lôi kéo, nó cứ rù quến ta, lôi ta đi theo những ham muốn đòi hỏi cho bằng người, cho hơn người mới được, có khi ta thấy cũng cao sang danh vọng đấy, tưởng rằng ta đang đứng ở trên nấc cao của cuộc đời, của xã hội, kỳ thực đó chỉ là những nấc thang đầu tiên, mà có khi cái nấc thang ấy cũng đã rũ mục, không đỡ nổi cho ta đủ sức bước lên nấc thang trên đâu, ta tưởng rằng đời ta nay đã vinh quang, đã thoát khỏi tù ngục của lòng ham muốn, nhưng kỳ thực ta đang ở trong tù ngục của lòng vị kỷ ấy mà chẳng biết.
Thế thì phải làm sao nhỉ? Chắc chắn là ta phải biết nhìn lên trên để hướng tới những điều tốt đẹp mà vươn tới, nhưng cũng phải biết nhìn xuống dưới chân để nhận ra rằng ta còn sung sướng hơn nhiều người, đồng thời cũng xin hãy nhìn chung quanh để thấy người, để nhìn người, để học hỏi, để đỡ nâng, để sẻ chia là vậy, có thế thì ta mới thấy cái xiềng xích ngục tù của tội lỗi sẽ dần dần nhẹ đi trong lương tâm ta, thế cũng là quá đủ phải không bạn nhỉ?

Làm đĩ

Con người sinh ra trên đời này có nam có nữ, có vui buồn hạnh phúc, có kẻ giàu người nghèo. Người quá nghèo thì phải lo tìm đủ mọi cách kiếm ra đồng tiền để lo cho miếng ăn, kẻ quá giàu thì vung tay tiêu xài để thỏa mãn lòng ham muốn, do vậy mà sản sinh ra lắm thứ vừa phù du vừa hiện thực, vừa khoái lạc vừa khổ ải, vừa hưởng thụ vừa mất mát, đớn đau là thế đấy. Và cũng vì thế mà nó phát sinh ra cái việc này, mới nghe qua thôi đã thấy sốc: Làm đĩ!
Đúng vậy, dù ở thời nào, hoàn cảnh nào, chế độ nào, không gian nào đi nữa thì khi nghe qua cái nghề làm đĩ này ai cũng thấy sốc trong cuống họng, thấy nó đau đáu khinh khỉnh làm sao ấy?! Tôi nói sốc trong cuống họng là vì muốn nghẹn, cũng có thể là khinh khi, không muốn nói đến, và cũng có thể là đớn đau, không nói ra bằng lời được là vậy.
Ngày xưa Nhà văn Vũ Trọng Phụng cũng có viết một cuốn tiểu thuyết với tựa đề như cái entry này vậy, đọc lâu quá rồi nên tôi cũng quên, nhưng vì chuyện đó hầu như luôn luôn nóng hổi, thời nào cũng có, nên nay tôi cũng mạn đàm lại đôi chút về cái gọi là nỗi đớn đau này. Tôi không hề lên án hoặc bào chữa cho việc này đâu, vì thực sự tôi không có quyền làm như thế, tôi gọi nó là nỗi đớn đau mà! Tôi lấy quyền gì mà dám lên án người khác chứ? Vì làm đĩ, theo tôi, chưa chắc là một nghề, mà cũng có thể đó là một hoàn cảnh, hay là một thứ đùa vui của những kẻ rửng mỡ, do vậy mà tôi không dám nói, cũng chẳng dám lên án, chỉ biết cảm nhận đôi chút mà thôi.
Mới đây tôi đọc qua một entry, nghe kể lại một vài bạn gái con nhà khá giả ở... (xin miễn nói ra địa phương này), các bạn ấy sung sướng quá nên tự dưng đến tối thì thấy buồn, vì ngày lo học theo lời cha mẹ nên uể oải, nhà cũng lắm tiền nên ăn chơi nhảy nhót riết rồi cũng chán, thế là một đêm nọ, để thử tìm cảm giác mới, ba cô gái bèn hẹn nhau trốn gia đình, trốn cha mẹ, son phấn lòe loẹt để thử đi làm đĩ một hôm xem sao, nghĩa là cũng đứng đường, tranh giành khách chơi với dân girl thứ thiệt, và cũng làm chuyện ấy thiệt tình luôn, bán đứt trinh tiết mình không thương tiếc để thử kiếm được bao nhiêu tiền một đêm (mà cũng chẳng biết các cô này có còn trinh tiết hay không nữa?). Đọc qua, tôi chợt thấy đắng cả họng với lỗi suy nghĩ giật gân của những cô gái này. Nhà trường giáo dục ra sao, gia đình răn dạy thế nào chẳng biết, thế mà bỗng dưng làm chuyện ngốc nghếch như thế này rồi đem lên blog khoe mẽ, chứng tỏ ta đây là dân ăn chơi, mà cũng có thể đây chỉ là chuyện nói phét cho blog mình thêm phần giật gân, nhưng xem những liên kết và những lời mập mờ dặn dò trên blog thì tôi biết đó là thật, và hàng ngày xem mấy trang báo web cũng đăng đầy ra những chuyện giật gân như vậy để câu khách chứ chẳng phải riêng gì blog, thì tôi biết những chuyện như thế này ngày nay chẳng hiếm.
Thế đấy! Làm đĩ! Nhục nhằn lắm chứ, nhưng vẫn có người muốn làm và cũng không thiếu những người phải làm hoặc bị làm. Cách đây mấy chục năm, thời còn đi học, tôi cũng đã biết nhiều hoàn cảnh bạn bè nghe qua là xót xa và đắng cả họng, đắng cả lòng, mà cũng chẳng phải nói chi đến chuyện mấy chục năm về trước, vì ngày nay cũng chẳng thiếu đâu, gian khổ cuộc đời luôn giăng đâu đó trên đầu, và chụp xuống biết bao nhiêu thân phận cơ nhỡ, khốn cùng trong xã hội, tôi biết rất nhiều người chị đã phải hy sinh cuộc đời mình làm đĩ nuôi mẹ bệnh hoạn, nuôi em ăn học vì không còn cách nào khác. Cũng có trường hợp em gái quá thương anh đang học đại học mà không có đủ tiền đóng học phí, phải trốn nhà đứng đường vài hôm để đưa tiền đóng học phí cho anh, bảo rằng tiền em đi làm thêm là vậy. Không phải riêng tôi, mà chắc hẳn những người trong chúng ta đây cũng biết đến chuyện vợ cũng phải làm đĩ để lấy tiền thang thuốc cho chồng... và biết bao hoàn cảnh đáng thương khác, phải làm cái việc không ai muốn này để bù đắp mọi thứ, để mang những đồng tiền đớn đau đó mà nuôi chồng, nuôi em, nuôi mẹ... Mai đây trên bước đường công danh của người em, vẫn còn thấm đẫm cái nỗi xót xa quặn lòng ấy không? Có biết rằng cái công danh ta có, cái vinh quang ta nhận có cả sự trinh tiết và nỗi xót xa, nỗi đớn đau của chị ta, của em gái ta hay không? Đó là lòng nhân ái, đó là sự yêu thương, quên đi cả thân mình, thế thì việc làm đĩ này có gì đáng trách đâu chớ!
Phàm việc gì trên đời cũng đều có cái giá của nó, có thể đáng trách và có thể đáng thương. Đáng trách có thể vì sa cơ, có thể vì lỗi lầm, có thể vì thất thế. Đáng thương có thể do hoàn cảnh, do xã hội, do cuộc đời dày xéo, nhưng những việc ấy không đáng khinh. Lỗi lầm có thể tha thứ được, có thể vực dậy được. Khi xưa ông bà ta thường bảo Lấy đĩ về làm vợ chứ đừng lấy vợ về làm đĩ là thế. Nếu làm đĩ vì phải hy sinh thực lòng thì chẳng phải là đáng thương hay sao? Tất nhiên không ai khuyến khích chuyện này nhưng ở một góc độ nào đó, sự hy sinh đã đứng phía trên sự cảm nhận của người đời, đã che lấp cái nhơ nhuốc mà người phụ nữ đem đi bán để lo cho gia đình. Tôi nói thế không phải để bênh vực đâu, nhưng là để chấp nhận một sự thật, cho dù nó đau xót đến cỡ nào đi nữa.
Sự thực thì trên đời có nhiều việc đáng khinh hơn nhiều, vì sự khinh khi trên mắt mỗi người theo tôi, không phải là nhìn thấy hành động thức thời rồi đem lòng khinh bỉ, mà đôi khi những chuyện xảy ra tưởng rằng rất đỗi bình thường như chạy chọt, hám danh, khoe của, hợm mình, ăn chơi tha hóa... cũng rất đáng khinh chứ đâu phải chỉ là làm đĩ thôi nhỉ? Rõ ràng trọng hay khinh không phải chỉ do tính cách hay hành động thôi mà còn phải dựa theo hoàn cảnh mà suy xét, mà cảm nhận, chớ vội kết luận nặng nề mà xóa đi những hoàn cảnh đáng thương của ai đó đang hiện diện bên ta, một cách khẽ khàng và lặng lẽ, đáng cảm thông hơn là đáng trách.
Với lại nhiều khi cái từ "đĩ" còn có nhiều nghĩa khác nhẹ hơn chứ chưa phải là quá nặng nề lắm đâu! Ai đó có tính tình hay chưng diện hoặc chải chót láng coóng ngày nào cũng thế thì gọi là đĩ tính, ai đó miệng mồm ba hoa rào đón quá thì gọi là đĩ miệng...

Thôi thôi, tôi không nói tiếp nữa đâu, nói nhiều quá, ba hoa chích chòe quá không khéo người ta cho là lão này già rồi mà cũng còn đĩ miệng thì khốn. Hic!

Tái bút: Xin kính báo là tại vì hôm nay là chủ nhật, mà thường thì chiều chủ nhật nào cũng buồn cả. Trịnh Công Sơn chẳng viết trong nhạc phẩm Lời buồn thánh là Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu... đó sao? Có điều nhà không có gác mà có blóc, nên mình đi dạo một vòng trong lúc người ta đang tí tởn vui đùa đâu đó, chứ đâu phải già ngắc, ngồi một chỗ như mình. Chợt nhận thấy cái blog Sống Đẹp của mình gần đây bỗng dưng còm men nhiều ghê, nhất là bài Giá trị của sự trinh tiết mình viết đã lâu lắm, nay các bạn trẻ vẫn còm men mới lạ, chứng tỏ chủ đề này bao giờ cũng vẫn nóng. Do vậy mà mình lại suy luận qua một điều khác để viết cái entry này chứ chẳng dám bênh vực hay trách móc, chỉ là một chút cảm nhận mà thôi.

Chân quê

Tối hôm qua trời lắc rắc mưa, tiếng lóc cóc đều đều gõ trên mái nhà trong một đêm vắng lặng của thị trấn nhỏ này nghe cũng ấm lạ, chẳng qua là mùa mưa đã bắt đầu rồi. Khác với khung cảnh náo nhiệt ở thị thành, mưa đầu mùa ở thị trấn nơi tôi sống có vẻ nhẹ nhàng và êm đềm hơn, không khí mát hơn hẳn, vì thị trấn này mới mở, vừa mang dáng dấp thị thành để mình nét niếc thoải mái, và cũng vừa mang dáng dấp thôn quê để mình căng võng sau vườn mà ngủ trưa là vậy, mưa rả rích nghe cũng hay nên chẳng thèm đi đâu chơi, ngồi nhà xem TV cũng là một cái thú.
Tôi vốn hay xem chương trình thời sự, trong nước cũng như ngoài nước, vì mình ngồi một chỗ vẽ truyện quanh năm suốt tháng mà không cập nhật cái khoản thời sự này e rằng cái tầm mắt nó đơ đi, do vậy mà tôi hay xem thời sự là vậy. Bỗng đâu một bản tin phóng sự làm tôi vừa buồn và vừa thấy phản cảm, chẳng biết có ai còn nhớ không, nhưng cái lời bình của phóng sự Giữ gìn Vệ sinh an toàn thực phẩm ở TPHCM thì tôi nhớ mãi, ai đời một nhà đài HTV9 như thế, khi đề cập đến sự nhếch nhác trong mua bán thực phẩm tại các chợ trời dọc theo các khu chế xuất, mà cụ thể là khu chế xuất Linh Trung, bình luận viên bảo rằng, sự nhếch nhác đó là do việc thôn quê hóa thành thị?! Tôi không nhớ rõ toàn văn, nhưng đại khái là như vậy, nghe qua thấy sao mà buồn thế! Hóa ra những sự lôi thôi, nhếch nhác, dơ dáy, kém an toàn là phong cách của người dân quê chúng tôi hay sao? Thế còn dân thành thị văn minh sạch sẽ lắm chắc? Tôi nghĩ sự sạch sẽ và dơ dáy thì ở đâu cũng có chứ không phân biệt thôn quê hay thành thị, chứ nhà đài nói như vậy thì những người ở quê buồn lắm, chúng ta vẫn hô hào tìm lại chốn xưa, tìm về thôn quê để đừng quên cái gốc cái gác, thế mà chê rõ ràng ra là cái văn hóa quê mùa nó không được sạch đã len vào thị thành hay sao? Các học giả ngày xưa rất bất bình khi thời thuộc địa Pháp đâu đó có dùng chữ "le nhaque" (đọc bằng lơ-nha-cờ hoặc lơ-nhà-quê cũng được) để chỉ sự ngu ngơ khờ khạo, quê mùa dốt nát của dân quê, thế mà ngày nay chúng ta lại xem sự dơ dáy trong cách ăn ở tại thành phố là do dân quê đưa về, vô hình trung chúng ta phân biệt còn hơn thực dân Pháp nữa sao? Nghe qua mà quá buồn là vậy.
Chốn Quê Nhà cho dù quê mùa cách mấy đi nữa cũng là cái gốc của con người, cần phải biết nâng niu và quý trọng thì mới xứng đáng là một con người có gốc gác chứ không phải từ dưới đất chui lên hay từ đường cống thành thị mà chui ra đâu. Tiến sĩ Trần Đại Nghĩa, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và cả Bác Hồ nữa... không phải cái gốc từ quê mà ra đó hay sao? Sao nhà đài lại nói nghe đau đáu như thế nhỉ? Cái chân quê trong chúng ta ai mà không có? chỉ nguyên cái từ "chân" thôi cũng đã là quá rõ, sự chân chất, mộc mạc của dân quê quý lắm chứ, sao ta không nhắc đến trong một xã hội thị thành nhiều cạm bẫy và bợ đỡ này, thế mà chưa chi đã vội bảo thôn quê hóa thị thành nên mới nhếch nhác như vậy. Xin thưa tôi cũng là dân quê đây, và biết bao người khác cũng từ quê mà vươn lên thị thành bằng chính đôi tay và trí óc, chứ không phải bằng gốc gác con cha cháu ông và sự bợ đỡ hối lộ đâu.
Mong rằng những lời bình như thế này đừng bao giờ xảy ra nữa để thị thành hay thôn quê đều biết hòa quyện vào nhau, nâng đỡ nhau mà vươn lên, vì sự tốt xấu, sạch dơ thì ở đâu cũng có, do chính chúng ta tạo ra chứ hoàn toàn không phải do "gốc gác" của chúng ta tạo ra đâu. Xin hãy nhớ kỹ điều đó để đừng làm những người chân quê như chúng tôi thêm đau lòng là vậy.

Mất bò rồi mới rào chuồng!

Câu thành ngữ này có trong dân gian đã lâu, có lẽ ai cũng đã nghe, ai cũng đã biết và hình như ai cũng đã có lần phạm phải: Mất bò rồi mới rào chuồng! Thật vậy, cuộc sống bon chen xoay vòng khiến ai cũng thấy những việc trước mắt cần phải làm ngay mà quên đi việc chuẩn bị cho tương lai để đối phó với những tình huống xấu, do vậy mà lỡ để mất bò rồi mới biết lo chuẩn bị mà rào chuồng, sửa chuồng, nhưng dù có rào chắc mấy đi nữa thì bò cũng đã mất rồi...
Chẳng qua là hôm nay Papi mới đi Sài Gòn, lại đi ngang qua cầu Đồng Nai thì vẫn có cảm nhận như ngày nào, chiếc cầu già nua lại chao đảo thấy mà phát ớn, chạy qua xong liền Amen thoát nạn! Chẳng hiểu vì sao mà mấy ông quan không thấy điều này nhỉ? Nghe đâu cũng đã cảnh báo nhiều lần và cũng đã lên kế hoạch rồi, nhưng chẳng hiểu do đâu mà vẫn chưa chịu bắt tay vào làm cái cầu mới cho rồi? Hay là đợi cho nó sập như cầu Bình Điền năm nào gây chết người rồi mới chịu làm? Lạ thật! Sao không chịu rào chuồng trước cho chắc ăn đi mà cứ đợi cho tới ngày mất bò nhỉ?
Chuyện "mất bò, rào chuồng" này thực ra cũng hơi hơi giống như phương pháp Vận trù học trong cuộc sống vậy. Muốn làm cái gì thì phải tính toán, phải chuẩn bị trước, chứ đừng để chuyện đã rồi lúc đó giải quyết sẽ khó khăn hơn nhiều, có nhiều bậc quan lớn tính toán cũng ghê gớm lắm, cũng giỏi giang lắm nhưng khi làm ra rồi thì hỡi ôi, thiếu cái này thiếu cái kia là vậy. Trước khi đổ đất đá bê tông làm nền đường thì hãy đào cống trước, chôn dây điện thoại hay cáp quang trước, chứ ai đời để làm con đường cho xong, khánh thành lễ lạc bia bọt phun đầy trời rồi sau đó đào đường lên lắp cái này, chôn cái kia, đào cái nọ là vậy. Vận trù học ở chỗ nào?
Cũng vì những chuyện trái mắt ấy xảy ra triền miên nên Papi tui lại nhớ đến cái tinh thần hướng đạo là phải sắp sẵn, phải sẵn sàng đâu ra đó trong mọi chuyện, có thế mới dễ thành công và công việc trở nên hoàn hảo hơn là thế. Biết rằng cuộc sống vô cùng bon chen, nhưng giá như ta biết bỏ ra một chút nghĩ suy để tiên liệu mọi thứ kể cũng tốt vậy, còn hơn là để xảy ra sự cố rồi lúc đó loay hoay tìm cách khắc phục. Nếu được thì cứ việc rào chuồng, sửa chuồng cho chắc thì bò đâu có bị mất?
Nói thì nói thế thôi chứ chính chúng ta đây cũng chẳng khác chi, không chịu chuẩn bị sẵn sàng trước, đợi khi chuyện lỡ xảy ra rồi phát hoảng, mới tìm cách ngăn chận. Tình thực mà nói thì của cải tài sản vật chất mất đi thì mai mốt mình làm lại được, chứ những giá trị tinh thần khác đánh mất đi thì liệu có rào lại đủ không? Cái danh dự con người mất đi có lấy lại được không? Cái chữ Tín mất đi liệu có lấy lại được không? Cái trinh tiết mất đi có lấy lại được không? Và còn biết bao cái trên đời này nữa, khi mất đi như mất hết cả cuộc đời, có muốn "rào chuồng" thì cũng đã lỡ rồi.

Nhưng khoan đã,

Chẳng phải việc gì cũng phải tính toán, chuẩn bị trước là hay đâu nhé! Vì có nhiều giá trị tinh thần khác được nối kết bằng những tình cảm chân thực vô tư mà ta tính toán quá thì cũng hỏng, thí dụ như tình bạn, tình yêu, tình vợ chồng chẳng hạn... Khi nối kết với nhau bằng cái tình thì xin hãy cho đi và đừng tính toán theo kiểu trên, vì ai đó đã nói rằng, giá trị cuộc sống không phải ở những gì bạn nhận được, nhưng là những gì bạn đã cho đi! Khi ta cho, nghĩa là ta có, như cú pháp của kế toán ấy mà! Xuất ra thì ta ghi CÓ, còn nhập vào thì ghi NỢ vậy. Cái tình mà chuẩn bị hay tính toán quá thì đâu còn tình nữa. Ta cho nghĩa là ta có, cho nhiều thì ta có nhiều thôi, không cần phải tính như vận trù học đâu. Chữ tình là một thứ của cải vô giá mà! Làm sao mà tính được? Không cần phải rào chuồng tính toán trước làm chi mà đâm ra sứt mẻ cái chữ Tình chúng ta vốn rất nâng niu.

Ôi, chỉ mới đi qua cái cầu rung một tí mà lan man quá! Khổ thân ghê Papi ơi...

Cái Duyên

Một thương tóc thả* đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương...


Thôi thì muốn mấy thương cũng được, vì cái thương là thứ tình cảm ưu ái của ta dành cho người khác nên muốn bao nhiêu cũng có, chứ không chỉ mười thương như ông bà ta ngày xưa bảo thế đâu, Kể ra đây cho hết thì mãn đời vẫn chưa xong. Hôm nọ nịnh vợ, tôi cũng đã có lần viết entry bảo: Một triệu lần thương, vợ ơi! Sao mà thương thế? ấy mà, nhưng đó là số lần thương chứ không phải số điều mình thương. Ở entry này tôi không dám nói chuyện thương đâu, mà nói đến cái điều làm cho người khác phải thương kìa, đó mới là điều đáng nói.
Tóc thả đuôi gà mà dành cho vị trí trang trọng nhất trong mười thương thì cũng không công bằng lắm đâu nghen, hèn chi ông Nhạc sĩ Thế Hiển hồi đó viết Tóc em đuôi gà là phải rồi, chắc là thương ghê lắm đó. Riêng tôi thì thích cái thương thứ nhì kia: Ăn nói mặn mà có duyên. A, đây đúng là điều tôi muốn nói. Đó là cái Duyên!
Trước hết tôi xin phép phân tích đôi chút cho rõ ràng nhé, chữ Duyên tôi muốn nói đây là Duyên Dáng, chứ chẳng phải Nhân Duyên hay Duyên Phận, Duyên Số đâu nghen.
Nói nào ngay, chỉ là cảm nhận cá nhân riêng tôi thôi, hồi nào đến giờ tôi rất thích cái tên này: Duyên. Hay ghê ấy, nó cũng chẳng quý phái hay trang trọng gì, tự dưng nói đến tên Duyên thì chúng ta nghĩ đến một cái gì đó chân chất mộc mạc chứ không cầu kỳ lắm đâu, mà lại thấy có vẻ như xinh xinh dễ nhìn vậy. Kể cũng hay, vì có rất nhiều người đẹp sắc nhưng nhìn qua thấy nó trơ trơ làm sao ấy, nhưng người đẹp duyên thì thích nhìn hoài, thậm chí không cần đẹp lắm, chỉ cần có duyên thôi người ta cũng vẫn thích nhìn, và quan trọng hơn là ai cũng thích gần là vậy, hèn chi mấy kẻ trơ tráo, ăn nói chẳng đâu ra đâu, xía vào chuyện người khác một cách lãng nhách thường bị mắng cho đồ vô duyên là thế, còn ai ăn nói dịu dàng, nhẹ nhàng dí dỏm, cuốn hút người đối diện bằng một thứ tình cảm tự nhiên, không hề tô vẽ hay nịnh hót, thì người ta thường khen anh này, chị này có duyên ghê. Nói đến đây thì chắc những ai có tên là Duyên chắc đang phồng mũi chứ gì, cẩn thận đừng bể lỗ mũi đấy nhé! Coi chừng đấy! Bởi vì cái tên không cũng chưa đủ đâu nhé! Điều cần thiết là những gì bạn thể hiện thì mới thật là có duyên.
Thực ra con người ta ai cũng có duyên cả, người thì cái duyên lộ ra bên ngoài qua gương mặt, qua tính cách, qua cử chỉ, nhưng người khác thì lại có duyên ngầm, chỉ qua một đôi câu nói hay một cái nhìn thôi, ta vẫn có cảm tình với họ, rõ ràng cái ngầm ấy thật là đáng yêu. Thế thì làm sao để mà biểu lộ cái duyên mỗi người ra nhỉ? Để người ta thấy cái duyên mà thương mình chớ? Xin thưa, ông bà ta ngày xưa thường bảo: Hữu xạ tự nhiên hương đó sao! Cứ sống thật với mình, vui tươi với mọi người thì tự người sẽ nhìn thấy cái duyên trong ta thôi, cho dù ta không cần phải có sắc đẹp, người ta vẫn thích nói chuyện với ta, vẫn thích gần gũi ta vì cái duyên của ta, còn cố mà sắp đặt cho cái duyên của ta nó lộ ra bên ngoài thì không khéo sẽ thành trơ trẽn mất. Cũng giống như sống mà cứ xoi mói bên này bên kia, xăm soi cái này cái khác, xem ai sai chỗ nào, ai thiếu sót cái gì để mà chỉa mũi dùi vào khích bác thì muôn đời cái duyên ấy làm sao mà lộ ra cho được? Trái lại còn tự vò nát cái duyên của mình đi, tự trói buộc mình vào ngục tù của lòng ganh ghét đố kỵ xấu xa là vậy.
Có phải thế không nhỉ? Tôi đã nhìn thấy cái duyên của bạn rồi đó, nó kia kìa! Chắc chắn hiện giờ sau khi xem xong những dòng này bạn đang cười, và nhân đó nhìn vào cái gương kế bên thử xem cái lão Papi này nói đúng là mình có duyên không, hoặc bạn đang hậm hực vô cùng, sửa soạn chửi thằng láo toét này đây, bày đặt phân tích này nọ làm như rành lắm đấy. Không sao đâu, tôi vẫn lắng nghe và cười toe toét đây này, vì lâu này bị người ta mắng cho là đồ vô duyên quen rồi. Hàhà...

(*Có nơi gọi rằng tóc bỏ đuôi gà, tóc xỏa đuôi gà, tôi thì thấy dùng từ tóc thả đuôi gà cho nó duyên dáng một tí, cột tóc lại rồi thả cái đuôi tóc xuống đó mà!)

Chẳng mất tiền đâu!

Tình hình là nơi tôi ngồi làm việc, phía lỗ tai bên phải là cái piano, thỉnh thoảng ngọ nguậy cái bàn tay đôi chút cho nó vang lên đôi ba tiếng đỡ buồn, trước mặt là cái giẻ lau mực như có lần tôi đã nói về cái vật dụng tầm thường này trong một entry rồi, còn phía lỗ tai bên trái là cái TV, tắt nó đi thì nhà vắng lặng quá, bèn mở nó ra thường xuyên, thỉnh thoảng liếc liếc qua đôi chút để xem tình hình thế giới ra làm sao rồi? (Làm như thế giới này không có mình e sống không yên ấy?! - Tể tướng của tôi thường bảo với tôi vậy). Cũng vì TV mở thường xuyên nên tôi hay nghe một chuyên mục ngày nào cũng có, đó là mục Nhắn Tin.
Quả thật, cái mục đơn giản và nhạt nhẽo này coi bộ chẳng ai ưa cũng như chẳng có ai quan tâm lắm đâu, thế mà vì nó cứ ra rả bên lỗ tai trái của tôi hằng ngày nên tôi đâm ra cũng hơi bị ghiền mới lạ, nói lạ thế chứ cũng bình thường thôi mà, tôi có một anh bạn trên blog ở trong xóm mình chứ chẳng đâu xa, anh có một sở thích cũng khá là lạ, đó là thích đọc Cáo phó nữa thì sao? Tôi thì chỉ nghe thôi chứ cũng ít khi liếc ngang liếc dọc làm gì, vì cái mục Nhắn Tin trên truyền hình này thiết nghĩ chỉ nghe cũng là đủ rồi.
Nghe xong rồi ngẫm nghĩ lắm khi lại thấy buồn buồn, đau đau ở đâu ấy, nào là Nhắn tin cho ông Nguyễn Văn A về gấp để làm thủ tục ly hôn, từ ngày mấy đến ngày mấy mà không thấy ông về coi như làm giấy xác nhận là ông đã chết (bất cần có biết ổng chết hay chưa, không về thì coi như đã chết, nghĩa là để đương sự có thể rảnh tay làm những việc khác như sang nhượng tài sản hoặc xây dựng một tình duyên mới, cũng dám lắm?!). Nhắn tin cho Trần văn B 14 tuổi bỏ nhà đi lang thang mang theo xe máy và giấy tờ, về đi, ba má tha hết lỗi cho con rồi... Nhắn tin cho bà Lê Thị C về gấp để ký giấy ly hôn, nếu không tòa sẽ xử vắng mặt... Mất giấy tờ, tôi tên vân vân và vân vân... lỡ đánh rơi mất giấy này giấy nọ (kỳ thực là bị móc túi chứ đánh rơi cái nỗi gì?!) ai nhặt được xin mang đến... nghe riết đâm ra quen, không còn cảm giác, nhưng có lúc giật mình vì sao vậy nhỉ? Thấy nó thiếu thiếu một điều gì đó trong lòng con người, trong đời con người, thì ra đó là cái TÌNH. Tình là thứ ai cũng sẵn có cả mà, ai cũng có thể cho đi mà đâu phải tốn đồng xu cắc bạc nào nhỉ? Thế mà sao người ta ít thể hiện trong cuộc sống thế? Buồn ghê...
Giá như cái chữ TÌNH ấy thể hiện được nhiều hơn trong cuộc sống con người nhỉ, chắc những kiểu nhắn tin như thế này sẽ ít đi, vợ chồng ít ly hôn hơn, con cái nghe lời cha mẹ mà bớt bỏ nhà ra đi hơn, kẻ cắp sẽ ít đi để khỏi ai kêu cứu mất giấy tờ... Nhưng được thế thì e nhà đài mất nguồn thu. Mà làm sao lý tưởng như thế được? Cuộc sống là thế đó thôi, cho dù cái tình ấy chẳng mất tiền nhưng không dễ kiếm đâu nhé! Đừng có mơ!

Thứ Ba, 1 tháng 4, 2008

Tác quyền Nhạc Trịnh

Em gái cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đòi tác quyền:
Hát một bài nhạc Trịnh phải trả 300.000

Gần một tháng nay, giới nghệ sĩ và những người hoạt động trong lĩnh vực ca nhạc TP.HCM xôn xao chuyện gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn yêu cầu các tụ điểm ca nhạc, các phòng trà thanh toán tiền tác quyền khi dụng các tác phẩm của cố nhạc sĩ...
Phản ứng của các chủ phòng trà
Giấy yêu cầu do bà Trịnh Vĩnh Trinh - em gái cố nhạc sĩ ký tên. Theo đó, bà Trinh yêu cầu: Thanh toán tiền tác quyền của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là 300.000 đồng/bài/lần biểu diễn.
Tổng số tiền thanh toán căn cứ vào tổng số lần biểu diễn tất cả các bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tính từ khi Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam có hiệu lực thi hành.
Ngoài ra giấy yêu cầu trên còn nói rõ: “Thời hạn thanh toán chậm nhất là ngày 31-3-2008. Trong trường hợp không nhận được tiền tác quyền nói trên trong thời hạn này, chúng tôi sẽ nhờ luật sư đại diện pháp lý của gia đình giải quyết theo Pháp luật Việt Nam và ông (bà) phải chịu trách nhiệm thanh toán tất cả mọi chi phí phát sinh, kể cả chi phí pháp lý…”.
Như vậy, nếu căn cứ vào giấy yêu cầu của gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì từ ngày 1-7-2006 (ngày Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam có hiệu lực) cho đến tới cuối tháng 3-2008 này, những phòng trà hay tụ điểm kinh doanh ca nhạc trên địa bàn TP.HCM sẽ phải trả một số tiền không nhỏ.
Các ca sĩ, ông bầu, từ trước tới nay, phần lớn đều sử dụng nhạc Trịnh Công Sơn như của “chùa”. Chỉ có một số ít khi kinh doanh nhạc Trịnh có ý thức trong việc trả tiền tác quyền.
Ca sĩ Ánh Tuyết - Chủ phòng trà ATB cho biết: "Trước đây, ATB từng gửi 10 triệu đồng cho gia đình trong ngày giỗ của anh Sơn, như là tiền bản quyền tượng trưng. Còn từ hôm nhận được giấy yêu cầu trả bản quyền trên, ATB ngưng hát nhạc Trịnh. Tiền tác quyền thì phải trả theo luật, nhưng nếu cứ truy theo 300.000 đồng/bài thì khó cho chúng tôi quá. Vì một đêm hát 20 bài nhạc Trịnh (thứ Sáu hàng tuần), trung bình đã phải trả 6 triệu đồng, nhưng có khi tổng doanh thu chỉ 2 triệu đồng (20 khách). Như thế thì làm sao phòng trà chịu nổi? Phải căn cứ theo chuẩn nào, cách làm nào cho hợp lý, có tính toán, theo doanh thu chứ không thể truy thu kiểu như thế được”.
Một chủ phòng trà xin giấu tên cho biết ngay từ khi nhận được giấy yêu cầu trả tiền tác quyền, phòng trà của ông không sử dụng nhạc Trịnh Công Sơn. Thậm chí có đêm, khi có khán giả yêu cầu ca sĩ hát nhạc Trịnh, ông cũng không cho phép hát vì sợ phải trả thêm tiền.
Trao đổi với một số ca sĩ thường xuyên hát nhạc Trịnh Công Sơn tại các phòng trà, tại một số tụ điểm ca nhạc… chúng tôi đều nhận được lời chối từ khéo léo: Chỉ biết hát, còn vấn đề bản quyền thì chưa được nghe, chưa được biết.
Bà Trịnh Vĩnh Trinh: Quyết làm tới cùng!
Trước đây, lúc sinh thời anh Sơn không đặt vấn đề thu tác quyền nên chúng tôi không thu. Bây giờ anh Sơn đã mất, Việt Nam lại có Luật Sở hữu trí tuệ nên là những người thừa kế, chúng tôi phải có trách nhiệm gìn giữ bảo quản những di sản anh Sơn để lại".
Bà cho biết: "Chúng tôi thu tiền tác quyền để xây dựng quỹ học bổng mang tên anh Sơn, nhằm hỗ trợ tài năng trẻ Việt Nam. Đây cũng là nguyện vọng của anh Sơn lúc sinh thời”.
* Nhưng theo ý kiến của một số người, việc thu 300.000 đồng/bài/lần hát là quá cao và khiến cho nhiều điểm diễn sẽ không có khả năng chi trả?- Trước khi đề ra mức tiền trên, chúng tôi đã tham khảo rất kỹ Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam và thấy đó là số tiền hợp lý. Tôi xin nêu một ví dụ, vào năm 2007, tại phòng trà M. đã tổ chức hai đêm nhạc Trịnh Công Sơn do ca sĩ QD hát. Phòng trà này đã thu tiền phụ thu cho mỗi khách là 300.000 đồng, chưa kể tiền nước. Tôi đã chứng kiến cả hai đêm, đêm nào khách cũng kín chỗ. Với trên 100 chỗ ngồi, tổng số tiền phụ thu hai đêm của phòng trà này đã lên tới trên 60 triệu đồng. Nhưng họ đâu có nói gì đến tiền tác quyền. Nhiều trường hợp đã cố tình xù tiền tác quyền.
Như vào cuối tháng 3-2007, một công ty tổ chức biểu diễn đã xin phép chúng tôi được tổ chức hai đêm nhạc Trịnh Công Sơn tại Hà Nội. Sau khi chúng tôi yêu cầu trả tiền tác quyền, họ đồng ý sẽ trả nhưng vào phút cuối lại nói hoãn không tổ chức chương trình đó nữa. Nhưng sự thật là họ vẫn tổ chức và đã “trốn” tiền tác quyền.
Còn với một số phòng trà nhỏ, doanh thu thấp, chúng tôi vẫn đồng ý để cho họ thương lượng. Cách đây hơn 2 tuần, sau khi nhận được giấy yêu cầu tiền tác quyền, có vợ chồng chủ quán nhạc Trịnh ở quận Bình Tân đã tới gặp chúng tôi và cho biết họ yêu thích nhạc Trịnh nên mới mở quán nhỏ để kinh doanh. Sau khi xem xét thực tế doanh thu, chúng tôi đã đồng ý cho họ tự nguyện trả tiền tác quyền.
Vì thế tôi vẫn khẳng định số tiền 300.000 đồng không phải là cố định mà chúng tôi có thể thay đổi, miễn sao cho những người sử dụng nhạc Trịnh để kinh doanh phải thấy trách nhiệm của mình trong việc trả tiền tác quyền.
* Việc thu tiền tác quyền nhạc Trịnh sẽ khiến nhiều khán giả mất cơ hội thưởng thức nhạc Trịnh, và nhiều phòng trà cũng bắt đầu từ chối hát nhạc Trịnh?
- Tôi không nghĩ là như thế! Từ trước tới nay rất nhiều nhạc sĩ khác được trả tiền tác quyền, tại sao Trịnh Công Sơn lại không được trả? Việc từ chối hát nhạc Trịnh tại một số phòng trà tôi không biết, nhưng việc tuân thủ pháp luật về tiền tác quyền là điều đương nhiên. Còn nhạc Trịnh đã có chỗ đứng trong lòng khán giả từ rất lâu nên tôi tin trong thời gian tới, khi tác quyền được thực hiện nghiêm túc, khán giả vẫn có cơ hội thưởng thức.
* Lúc sinh thời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất ưu ái với những ca sĩ trẻ khi sử dụng các ca khúc của ông để tạo dựng tên tuổi. Liệu khi tiền tác quyền được thực thi, những ca sĩ trẻ mong muốn được hát nhạc Trịnh có thể được lưu ý?
- Như tôi đã nói, Quỹ tài năng trẻ mang tên anh Sơn do chúng tôi lập ra cũng nhằm tìm và phát hiện những tài năng trẻ trong âm nhạc. Cách đây mấy năm, một ca sĩ trẻ ra album đầu tay chúng tôi cũng không lấy tiền tác quyền và hiện nay ca sĩ đó đã nổi tiếng. Sau khi quỹ thành lập xong và đi vào họat động thì không chỉ miễn tiền tác quyền, chúng tôi còn tài trợ, giúp đỡ các ca sĩ trẻ lập nghiệp.
* Sao gia đình bà không ký ủy quyền cho Trung tâm Bảo vệ tác quyền tác giả âm nhạc Việt Nam thu cho tiện?
- Chúng tôi không quen nói đến chuyện tiền bạc nên khi đặt vấn đề tiền tác quyền, chúng tôi đã gặp một số phản ứng. Vì thế chúng tôi cũng đã làm việc với Trung tâm Bảo vệ tác quyền tác giả âm nhạc Việt Nam và có lẽ chúng tôi sẽ ủy quyền cho nơi này làm giúp thì hợp lý hơn. Nhưng chúng tôi vẫn khẳng định sẽ quyết tâm làm tới cùng việc thu tác quyền nhạc Trịnh Công Sơn vì điều này Luật đã cho phép.
TRỌNG THỊNH - Theo Tiền Phong
Ý kiến bạn đọc:
TTO - Nên "thích nghi" với vấn đề tác quyền hay nên để nhạc Trịnh được "miễn phí" sống trong lòng đại chúng? Ai có quyền đòi tiền tác quyền và mức tác quyền nên được tính ra sao, bạn đọc TTO đã có nhiều ý kiến khác nhau
Nếu thu phí tác quyền đối với 1 lần hát ca khúc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn thì giá 300.000 đồng hoặc ít hơn bao nhiêu cũng làm không ít người kinh doanh phòng trà hay quán cà phê dùng nhạc Trịnh làm thương hiệu kinh doanh lâu nay cảm thấy hơi choáng, chí ít họ cũng đã ít nhiều tạm dừng việc hát nhạc Trịnh.
Mong chị Trịnh Vĩnh Trinh suy nghĩ lại chút ít, nếu cứ làm như trên thì hóa ra nhạc Trịnh đâu còn là thứ nhạc của đại chúng?!
PHAN NHƯ QUỲNH
Âm nhạc luôn đi vào lòng người, từ hàng trăm năm nay, trên thế giới các nhà soạn nhạc tên tuổi như Bethoven, Mozart... để lại những bản tình ca bất hủ. Họ đã mất đi, nhưng tên tuổi của họ thì còn lại mãi ngàn năm.
Không ai phủ nhận quyền giữ bản quyền của tác phẩm, nhất là trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, tuy nhiên sự thăng hoa trong âm nhạc và sự lưu truyền từ đời này sang đời khác các bản nhạc bất hủ có lẽ là điều vô giá đối với một nhạc sĩ, nó còn giá trị hơn rất nhiều những đồng tiền bản quyền bình thường kia!
Tôi vẫn thường nói vui với bạn bè rằng nhạc Trịnh có khi vẫn còn được đời cháu, chắt của chúng ta lắng nghe và cảm nhận, lưu truyền. Nhưng nếu 300.000 đồng một bài, hỡi ôi sinh viên, công chức làm sao nghe nổi, chỉ một phần nhỏ "đại gia" nghe thôi...Thật đáng tiếc và buồn!
VŨ BÌNH MINH
Trịnh Công Sơn một cây đại thụ trong làng nhạc sĩ Việt Nam. Cả một đời cống hiến cho âm nhạc, có thể nói những bản nhạc của ông đã đi sâu vào lòng không biết bao người yêu nhạc...
Có thật sự là tâm nguyện của ông muốn lập một quĩ gì đó mà gia đình nói không? Tôi thiết nghĩ nếu thu tác quyền như thế thì khi người yêu nhạc khi nghe nhạc Trịnh sẽ không còn như trước nữa, thay vào đó là một tâm lý không thoải mái.
TRẦN VĂN NGUYỄN
Lâu nay người Việt chúng ta cứ quen xài "chùa" mất rồi. Nay người ta đòi tác quyền thì giãy nãy lên! Phải tuân thủ luật tác quyền cho phù hợp với các xã hội văn minh thôi.
Thế nhưng theo tôi, ở các phòng trà mà thu một lần hát cho một ca khúc tới 300.000 đồng là hơi cao, cần xem lại giá cả. Còn nếu hát trước một sân khấu lớn với hàng ngàn khán giả thì mức thu như trên lại quá "bèo".
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
Tôi nghĩ các phòng trà, tụ điểm tổ chức ca nhạc hay các ca sĩ muốn hát nhạc của bất cứ nhạc sĩ nào sáng tác đều phải có trách nhiệm trả tiền tác quyền, vì mỗi đêm ca sĩ biểu diễn thu vào hàng mấy chục triệu đồng (trừ những ca sĩ mới chập chững vào nghề), các bầu sô thu vào cũng không kém...Vì vậy, thu nhập nhưng có phần công sức của người khác thì phải có trách nhiệm.
NGUYỄN THANH LÂM
Theo tôi thấy thì việc thu tiền tác quyền những ca khúc Trịnh Công Sơn là hợp lý vì những người kinh doanh cũng như ca sỹ phải biết trách nhiệm của mình khi kinh doanh sản phẩm trí tuệ của người khác. Đó mới đúng là sự công bằng,văn minh phù hợp với xu hướng hội nhập của thế giới.
TH.MINH
Tôi là một người rất quan tâm về lĩnh vực âm nhạc và đặc biệt là nhạc Trịnh. Vì thế khi đọc được bài viết này tôi cũng rất lấy làm tâm đắc vì quyền sở hữu trí tuệ của VN đã bắt đầu có hiệu lực và được thực thi một cách nghiêm túc (dù rằng đấy chỉ là mới bắt đầu).
Theo tôi chị Vĩnh Trinh hoàn toàn có lý do để đưa ra một cái mốc 300.000đồng/bài hát của nhạc sĩ TCS nhưng thiết nghĩ nó phải được đặt dưới sự quản lý của một tổ chức hay một cơ quan đại diện nào chứ không phải là của chị Vĩnh Trinh, dù rằng số tiền tác quyền đó có làm vào mục đích nào đi chăng nữa. Đừng để vì bất cứ một lý do nào để ảnh hưởng đến một thần tượng, một tài năng âm nhạc mà rất lâu nay mọi nguời yêu nhạc mến mộ.
TRAN HOAI DUY
TT - Việc ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh - đại diện gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - gửi văn bản đến các phòng trà, đơn vị tổ chức biểu diễn đề nghị thanh toán (từ 1-7-2006) tác quyền ca khúc của anh trai đang khiến không ít ông bà chủ của những đơn vị tổ chức biểu diễn "băn khoăn", "bối rối".
Theo yêu cầu từ phía gia đình cố nhạc sĩ, một bài của Trịnh Công Sơn được sử dụng phải trả số tiền 300.000 đồng/lần.
Thu tiền tác quyền: lâu nay làm… cho có
Sự kiện gây "bối rối" vì số lượng ca khúc của Trịnh Công Sơn được sử dụng là không nhỏ, được hát không ít lần. Còn "băn khoăn" vì một thực tế khác, trừ những ca khúc của Phạm Duy được Phương Nam độc quyền - kiểm soát bản quyền chặt chẽ, lâu nay chuyện thu tiền tác quyền ca khúc chỉ được làm... cho có.
Là đơn vị tổ chức chương trình lớn và sản xuất băng đĩa có sử dụng ca khúc của Trịnh Công Sơn thường xuyên nhất, Phương Nam đã thực hiện trả tiền tác quyền những ca khúc ghi âm để phát hành CD cho gia đình nhạc sĩ với giá 1 triệu đồng/bài. Số tiền sẽ được tính cao hơn với những ca khúc được sử dụng trong chương trình biểu diễn có doanh thu, ghi hình và phát hành đĩa sau đó. Nhưng thực tế, việc tôn trọng tác quyền ca khúc của Trịnh Công Sơn nói riêng và nhiều nhạc sĩ VN nói chung trong những hoạt động biểu diễn khác thì hoàn toàn ngược lại…
Ca sĩ Ánh Tuyết - chủ phòng trà ATB - cho biết việc thu tiền tác quyền ca khúc hiện nay hầu như chỉ được thực hiện trong những chương trình lớn, con số thường là 500.000 đồng đến 1 triệu đồng/bài, nhưng lại được thỏa thuận gia giảm tùy vào tính chất sô "từ thiện hay không từ thiện", "truyền hình hay không truyền hình"... Ngay với việc trả tiền tác quyền cho những ca khúc của Văn Cao mà ATB thường xuyên sử dụng cũng chỉ được tính theo... tình cảm. Tức là có doanh thu tốt thì Ánh Tuyết sẽ tự nguyện trích một khoản để gửi lại gia đình của nhạc sĩ, còn ngược lại thì... Nhạc sĩ Lê Quang, chủ phòng trà Không Tên, cũng cho biết trước nay phòng trà không phải trả tiền tác quyền ca khúc cho nhạc sĩ, dù đó là một việc hợp lý.
Ông Nguyễn Tuấn - đại diện phòng trà Tình Ca, trước đây là biên tập của phòng trà M&Tôi - cho biết trong cân đối thu chi của các phòng trà trước nay thường không có khoản cho "tiền tác quyền".
Thương lượng để trả theo doanh thu
Về bản quyền ca khúc nói chung, Phương Nam là đơn vị đầu tiên thực hiện độc quyền các ca khúc của Phạm Duy và áp dụng chế độ thu tiền tác quyền. Qui định được đưa ra ngay từ đầu nên cũng dễ cho các đơn vị trong việc cân đối, quyết định tổ chức những chương trình có sử dụng ca khúc của ông. Bà Phan Mộng Thúy, giám đốc Phương Nam, cho biết đơn vị của mình cũng không quá cứng nhắc trong việc thu tác quyền. Cụ thể với những chương trình của Ánh Tuyết tổ chức tại phòng trà hay một số chương trình nhỏ, vừa khác, số tiền thu không được tính với giá 1 triệu đồng/bài như qui định, mà tính tùy thuộc vào tính chất, qui mô của chương trình.
Phương Nam cũng áp dụng "hợp đồng linh hoạt" với Đức Tuấn - ca sĩ thường xuyên hát nhạc Phạm Duy. Theo đó, số tiền Đức Tuấn phải trả cho việc sử dụng ca khúc được tính theo năm. Con số này sẽ ít hơn rất nhiều so với việc nhân và cộng số lần, số bài sử dụng. "Hơn nữa cũng không thể nào kiểm soát hết được ca sĩ hát bao nhiêu bài, bao nhiêu lần trong những chương trình dạng "hát theo yêu cầu" của phòng trà - bà Thúy nói - Với thực tế hiện nay, quan trọng không phải là thu được nhiều tiền mà là kêu gọi ý thức tôn trọng tác quyền của người sử dụng".
Với những đêm nhạc Trịnh sắp được tổ chức, phần lớn đều tiến hành thương lượng lại với gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để trả theo doanh thu, chương trình chứ không áp dụng hình thức tính theo bài, lần. Như ba đêm nhạc Trịnh sắp được tổ chức tại phòng trà Yesterday dự kiến sử dụng 31 ca khúc/đêm. Anh Khoa, người thực hiện chương trình, cho biết tổng số tiền tác quyền mà chương trình trả gia đình ông là 10 triệu đồng/đêm. Số tiền này được tính theo thỏa thuận chứ không theo số lượng bài.
Nhạc sĩ Lê Quang định tổ chức chương trình nhạc Trịnh cũng cho biết: "Tôi và chị Trịnh Vĩnh Trinh đang thương lượng lại. Có thể sẽ không áp dụng cách tính theo bài, lần mà theo quí hoặc năm, vì hoạt động phòng trà sử dụng rất nhiều ca khúc, hát theo yêu cầu khán giả, không như những hoạt động biểu diễn khác".
Ông Nguyễn Tuấn, biên tập phòng trà Tình Ca, thổ lộ: "Phòng trà Tình Ca đã thương lượng lại với gia đình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về tiền tác quyền ca khúc trong hai đêm nhạc sắp tổ chức, sẽ không tính theo số bài mà dựa vào doanh thu của chương trình và trên tinh thần hợp tác để góp phần giữ cho nhạc Trịnh sống mãi".
ĐỖ DUY
Thông tin tham khảo
* Theo các phòng trà và đơn vị tổ chức khác, việc thu tiền bản quyền ca khúc là hoàn toàn đúng, nhưng do thực tế quản lý lỏng lẻo bấy lâu nay không được áp dụng đồng bộ, nên việc truy thu là hơi... khó. Hầu hết giới tổ chức biểu diễn phòng trà đều cho rằng cách tính 300.000 đồng/bài/lần hát là khá cao. Với những chương trình phòng trà, ca sĩ hát rất nhiều theo yêu cầu, tính bằng số lần thì con số phải trả trong một đêm sẽ không thua gì catsê của một ca sĩ hạng B.
* Ông Tô Văn Long - trưởng phòng quyền tác giả, Cục Bản quyền tác giả:
Việc thu tiền bản quyền được tính căn cứ theo nghị định của Chính phủ về chế độ nhuận bút (nghị định số 61/2002/NĐ-CP). Đối với những lĩnh vực chưa được qui định sẽ dựa trên sự thỏa thuận giữa tác giả với nhà khai thác sử dụng.
Nghị định số 61 của Chính phủ về chế độ nhuận bút nêu rõ: tác phẩm đã công bố, phổ biến khi được sử dụng lại, tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm vẫn hưởng nhuận bút theo qui định. Việc trả nhuận bút phải đảm bảo hợp lý giữa lợi ích của tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm, lợi ích của bên sử dụng tác phẩm và lợi ích của người hưởng thụ tác phẩm, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Đối với tác phẩm có tính đặc thù chưa được qui định cụ thể tại nghị định này thì việc trả nhuận bút do thỏa thuận giữa bên sử dụng tác phẩm với tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm thông qua hợp đồng thỏa thuận khoán gọn.
* Theo Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc VN (VCPMC), mức thu tiền bản quyền áp dụng trong năm 2007-2008 tại quán cà phê, giải khát (kể cả phòng trà - PV) tại thành phố loại một: tại quận - khu vực trung tâm, mức thu (khoán) đối với việc sử dụng nhạc sống ở những quán dưới 30 chỗ ngồi là 75.000 đồng/tháng. Nếu quán có trên 30 chỗ ngồi, thu theo mức 7.500 đồng/chỗ ngồi/tháng. Số tiền bản quyền thu được sẽ chia cho các tác giả căn cứ trên danh sách tác phẩm âm nhạc đã sử dụng nhân với số lần sử dụng tại quán. Danh sách và số lần sử dụng do người sử dụng điền vào bản kê khai có sẵn của VCPMC.
Theo VCPMC, cách tính này căn cứ trên các qui định luật pháp và dựa trên sự thỏa thuận giữa VCPMC, tác giả và nhà khai thác sử dụng. Kể từ năm 2006, gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tự tiến hành việc thu tiền bản quyền, không ủy thác cho trung tâm như trước kia.
U.LY - Đ.D
Ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh - đại diện gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:
Chúng tôi linh động trong việc áp dụng khung giá
* Thực tế việc truy thu tiền tác quyền những ca khúc của Trịnh Công Sơn ở thời điểm này xuất phát từ lý do gì?
- Trịnh Vĩnh Trinh: Đã từ bấy lâu nay việc trả tiền tác quyền cho anh Sơn được thi hành một cách tùy tiện. Gia đình chưa bao giờ lên tiếng. Tuy nhiên trong những năm gần đây, việc vi phạm tác quyền càng ngày càng nghiêm trọng. Điển hình là gần đây những đêm nhạc Trịnh Công Sơn tại một số phòng trà lớn ở TP.HCM, đêm biểu diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội, Cung văn hóa Hữu nghị Hà Nội… những nhà tổ chức gồm những người nổi tiếng kể cả nhạc sĩ không hề đoái hoài đến việc thi hành nghĩa vụ tác quyền. Và đến khi gia đình bắt buộc phải nhắc nhở thì họ vẫn lờ đi! Theo anh, chúng tôi cần phải làm gì?
* Việc thu tiền tác quyền ca khúc đã không được áp dụng chặt chẽ trong thời gian qua dẫn đến các đơn vị tổ chức chưa có ý thức tốt và băn khoăn, bối rối trong lần truy thu này, dù biết đó là khoản thu hợp lý. Chị nghĩ sao?
- Thật sự khung tác quyền đã được định nghĩa rất rõ ràng bởi Cục Tác quyền một cách bài bản và khoa học, dựa trên loại hình biểu diễn, nơi biểu diễn, số ghế và giá vé... Nếu gia đình chúng tôi áp dụng khung giá này thì số tiền tác quyền phải trả sẽ lớn hơn nhiều. Phải nhấn mạnh rằng qua kinh nghiệm, những cá nhân hay tổ chức thật sự muốn trả tiền tác quyền thì đó không phải là vấn đề. Chúng tôi luôn linh động trong việc thu tiền tác quyền nhằm khuyến khích các hoạt động văn nghệ chân chính và có tính cách quần chúng. Điển hình là chúng tôi chưa bao giờ đặt vấn đề tác quyền cho tất cả những đêm nhạc Trịnh Công Sơn tổ chức hằng năm tại khu du lịch Thanh Đa - Bình Quới.
Rất nhiều cơ sở khác như cà phê Trịnh ở quận Tân Bình, cà phê Yesterday ở quận 3, phòng trà Tình Ca của gia đình nhạc sĩ Phạm Duy, của ca sĩ Lan Ngọc đều đóng góp trên cơ sở tự nguyện.
Tôi xin xác nhận không có việc phải trả 300.000 đồng cho mỗi bài hát Trịnh Công Sơn. Số tiền này có thể cao hơn nhiều hoặc rất thấp hơn, hoặc miễn thu tùy theo địa điểm, chủng loại và tính cách quần chúng của nó. Dĩ nhiên nếu những buổi trình diễn thuần túy chỉ mang tính chất thương mại thì chúng tôi có quyền áp dụng khung giá tác quyền qui định bởi luật pháp VN.
* Các đơn vị tổ chức cho rằng con số 300.000 đồng/bài là quá cao so với những hoạt động của phòng trà. Chị nghĩ sao về việc này?
- Nếu phải áp dụng theo đúng khung giá qui định bởi Nhà nước thì con số 300.000 đồng/bài cho những hoạt động của phòng trà thì vẫn còn thấp cho những phòng trà có tầm cỡ. Và chúng tôi luôn linh động trong việc áp dụng khung giá, phân biệt những hoạt động có tính chất quần chúng với những hoạt động chỉ mang tính chất kinh doanh, thương mại. Rất tiếc, những người than vãn về tiền tác quyền phải trả trên công luận lại là những người chưa bao giờ đến gặp chúng tôi.
ĐỖ DUY thực hiện
Ý kiến bạn đọc:
Thu tiền tác quyền, xin nhã nhặn hơn!
TTO - Hôm nay đọc vấn đề chị Trịnh Vĩnh Trinh yêu cầu 300.000đồng cho mỗi bài nhạc Trịnh hát ở phòng trà và thấy có một số chủ phòng trà phản đối tôi nghĩ cũng lạ.
Xét về phương diện tác quyền, không biết là các chủ phòng trà hay các ca sĩ trình bày phản đối như vậy có phải là kém tôn trọng tác quyền? Với các ca sĩ được mến mộ thì 300.000đ trên một bài hát họ trình bày là quá nhỏ nhoi, trong khi thu nhập họ hát với đơn vị tính là triệu đồng. Tuy nhiên với các phòng trà nhỏ với các ca sĩ hát như là một nghiệp thì quả thật 300.000đ là rất lớn.
Xét về phương diện nhân sinh, nhạc của ông không phải để nghe mà còn để nghĩ. Người yêu nhạc Trịnh Công Sơn là vì vậy, người nghe đa phần là những người thích sự thâm trầm. Tôi khi xưa lúc không có tiền cũng mua những đĩa nhạc Trịnh không có bản quyền, giá rẻ. Sau này, khi có được thu nhập tôi lại mua những đĩa có bản quyền, dù rằng những đĩa đó mình đã có trước một bản copy.
Vấn đề đặt ra theo tôi nghĩ là cách thu và cách nêu ra lý lẽ, không nên đặt dư luận trước một lý lẽ hơi chung chung là "thu để làm quỹ học bổng", điều này có vẻ không thuyết phục. Bằng cách nào đó, gia đình nhạc sĩ nên khéo léo, không nên khiến người nghe sẽ quay lưng vì thấy nhạc Trịnh không còn để thâm trầm suy ngẫm nữa mà nó đang là "money maker" (kiếm tiền).
Nhạc của Trịnh Công Sơn là di sản, gia đình là người được ủy thác để gìn giữ di sản đó, mong hãy làm cho di sản tinh thần này được lan tỏa đến mọi người để mọi người cùng gìn giữ. Đừng để mọi người phó thác cho gia đình giữ di sản... một mình (!).
HV NGUYEN
300.000đồng mới chỉ là số tiền đề nghị phải trả đối với các phòng trà nhỏ, còn với các phòng trà lớn như Không Tên, M&Tôi chẳng hạn, bà Trinh đề nghị trả 500.000đ/bài/lần hát. Nếu thu đủ theo mức này thì tôi cam đoan chẳng phòng trà nào dám cho ca sĩ hát nhạc Trịnh hằng đêm. Giỏi lắm thì cố gắng thi thoảng làm một chương trình như dịp 1-4- ngày giỗ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chẳng hạn.
Thu tác quyền là điều không thể chối cãi, các phòng trà theo tôi biết cũng sẵn sàng trả tác quyền, nhưng thu thế nào cho hợp lý chứ ra tối hậu thư theo kiểu đòi nợ, hù dọa như thế, khiến nhiều người cảm thấy khó chịu và họ bỏ luôn đêm nhạc Trịnh Công Sơn hay không cho ca sĩ hát nhạc Trịnh là điều dễ hiểu.
Thử hỏi từ khi có Luật sở hữu trí tuệ, gia đình Trịnh Công Sơn có ra công văn gửi các nơi đề nghị trả tiền tác quyền chưa mà bây giờ đùng một cái lại đi gửi giấy đòi tiền như vậy, còn tự ý ra mức giá thu mỗi bài 300.000 - 500.000 đồng cho mỗi lần hát. Không kể các ca sĩ ngôi sao, hầu hết các ca sĩ hát nhạc Trịnh ở các phòng trà hát một show (từ 2-3 bài) được trả khoảng 100.000 - 200.000 đồng thì lấy tiền đâu trả tác quyền?
Còn nếu phòng trà phải trả thì cứ một ca sĩ hát 2 -3 bài như thế, một đêm cũng khoảng trên dưới 20 bài, số tiền phải trả là từ 6- 10 triệu đồng. Lỗ là cái chắc! Còn vịn vào các đêm có ngôi sao, tiền phụ thu cao - cũng phải tính đến tiền cho ca sĩ, tiền mặt bằng, điện nước, ban nhạc, nhân viên, thuế... Chưa kể là lâu lâu họ mới dám làm một đêm như vậy để bù vào các đêm bị lỗ hay vắng khách.
Cho nên phải cân nhắc sao cho hợp tình hợp lý và người ta có thể chấp nhận được, chứ kiểu này thì nhạc Trịnh vô tình trở thành một món hàng xa xỉ không còn được phổ biến đại chúng như trước đây nữa.
Theo tôi, cách tính tác quyền hợp lý nhất là cứ thu như các nhạc sĩ hiện đang làm vậy. Tức một ca khúc ca sĩ mua độc quyền của nhạc sĩ khoảng 5 triệu đồng, còn mua tác quyền chỉ từ 500.000 đến 1 triệu và được quyền hát bất cứ đâu, bất cứ bao nhiêu lần, kể cả làm băng đĩa.
Nhạc Trịnh thì không thể (hay đúng hơn là không nên) bán độc quyền, vì nhạc Trịnh là nhạc của đại chúng. Cho nên chỉ có thể bán tác quyền cho các tụ điểm hay phòng trà có hát nhạc Trịnh. Muốn mua tác quyền bao nhiêu bài thì đăng ký và chỉ trả một lần để các ca khúc đó được hát ở phòng trà đó, nếu không đủ tiền thì mua nhiều đợt, vì nhạc Trịnh Công Sơn có tới hàng ngàn bài mà. Thu như vậy là hợp lý và các phòng trà có thể chấp nhận được, còn nếu mỗi lần hát mỗi lần thu thì đố ai dám hát thường xuyên. Nhạc Trịnh dần dần bị xếp xó là cái chắc.
Chỉ những chương trình lớn, có đông khán giả, có tài trợ thì thu 300.000 đồng hay 500.000 đồng/bài/chương trình là phải. Mong bà Trịnh Vĩnh Trinh và gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn xem lại cách thu tác quyền và cách hành xử nhã nhặn hơn đối với những nơi đang phổ biến và bảo tồn di sản của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
HỒNG SƠN

(Tổng hợp từ báo Tuổi Trẻ)

Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2008

Chuyện rỗi hơi...



Nhân đọc bài "Không thể và có thể" trên cộng đồng blog Việt Nam, tui chợt nhớ ra một điều mà thiết nghĩ sao ngày nay người ta vẫn cứ khờ khạo ngây thơ rồi nhắm mắt coi như không biết nhỉ? Khờ khạo ngây thơ cái gì và nhắm mắt làm sao thì chút nữa ta sẽ nói, nhưng bây giờ xin hãy đọc lại bài thơ này đã nhé:

Ở đây
Việt Nam
tôi có thể vào
sexviet chấm com
traigaisex chấm com
giaitrisex chấm com
gaihot chấm com
vân vân và vân vân
những website khiêu dâm đồi trụy
luôn mở rộng cửa đón tôi
...
nhưng
cũng ở đây
Việt Nam
tôi không thể vào
talawas chấm org
vietbao chấm com
rfa chấm org
danchimviet chấm com
vân vân và vân vân
những website chính trị
luôn bị chặn lại trước mặt tôi
(Client Error: URL requested was filtered)
(Your request cannot be serviced due to access restrictions)
(Please contact your System Administrator for further details)
...
thế nên
ở đây
Việt Nam
tôi có thể trở thành một gã du côn
một tên dâm tặc
bất cứ lúc nào
nhưng tôi không thể
lệch lạc về tư tưởng
không sập bẫy diễn biến hòa bình
không bị các thế lực thù địch lợi dụng
...
tôi
một thằng lưu manh
rất vững vàng lập trường chính trị
...


Thực sự tui chẳng biết tác giả bài thơ này, nhưng đọc qua thì tâm trạng và lời thơ nó hiện thực quá, hiện thực đến nỗi đau đáu cả mình vậy. Chúng ta đang sống ở thế kỷ 21, cái cách vượt tường lửa để vào các site chính trị kia ai mà chả biết, thế mà họ vẫn chặn để làm gì nhỉ? Chỉ có nước chặn mấy anh chàng ngu ngơ về vi tính thôi, chứ những người có bản lĩnh chính trị rồi thì việc chặn tường lửa nầy của mấy ông nhà nước xem ra nực cười và phí thời gian. Những site khiêm dâm đồi trụy kia sao họ không chặn nhỉ? Nếu chặn thì rất hiệu quả đấy, vì chỉ có những anh chàng tơ lơ mơ về vi tính ăn không ngồi rồi rững mỡ mới ham vào xem, do đó chặn lại thì mấy tay ấy bó tay thôi, thế mới là hiệu quả, chứ chặn mấy site chính trị cũng như không, vì đã muốn vượt tường lửa thì vượt ngay thôi, sau đó tha hồ đưa về blog, mà đã đưa về blog rồi thì đố anh nhà nước đấy, cấm nổi không? Một nhân mười, mười nhân một trăm ngay lập tức, do vậy mà tui nhận thấy suy nghĩ của mấy anh cán bộ quản lý của nhà nước ta ngây thơ là chỗ đó, ngây thơ đến độ nực cười, thế mà vẫn làm, vẫn ăn đồng lương nhà nước, mà lương nhà nước thì ở đâu ra? từ tiền thuế của người dân đó thôi. Sự việc rành rành thế mà sao nhà cầm quyền không thấy ư? mắt họ có bị mù không nhỉ? Thử vào một dịch vụ net, hay là ngay chính trong đại bản doanh của các nhà quản lý Internet cũng thế, một màn hình có dòng chữ địa chỉ này đã bị chặn lại, máy tính kế bên cũng địa chỉ đó mà vượt tường lửa được ngay, nực cười là thế đó.
(Copy từ blog của Đứng Dậy Y!360)

Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2008

Gởi nắng cho em

Sau những ngày bão lũ, lụt lội, sụp núi kinh hoàng rồi đến những cơn rét hại ở miền Bắc trong những ngày đầu xuân này, tôi lại nhớ đến cái thân phận bé nhỏ của con người trước thiên nhiên, nhớ chừng nào lại thấy mình nhỏ bé hơn chừng nấy. Ấy thế mà lắm kẻ mới tìm ra hoặc cóp-pi đâu đó được đôi ba điều dở hơi gọi là phòng chống bão lũ, phòng chống thiên tai, đã vội loan tin rùm trời là đã biết cách khắc phục thiên nhiên, chống chọi được với thiên nhiên, làm như ta đã là người tài giỏi lắm, có khi huênh hoang coi trời bằng vung, nhưng thực ra đó là những tuyên bố lấy điểm, lấy tiếng trên truyền hình hoặc trước bàn dân thiên hạ để kiếm hoặc giữ lấy cái chức cái phận thôi, chứ khi quay về, chỉ nghe một luồng sét nổ ầm trên bầu trời thì kẻ ấy lại thu mình nhỏ lại như con kiến, miệng lầm rầm khấn vái Trời Phật Nam mô nam mô... Quả thật, đứng trước thiên nhiên, con người ta mới nhận ra được mình thật là nhỏ bé... nhưng nói như vậy không có nghĩa là chúng ta khoanh tay ngồi chờ, chúng ta vẫn biết được cái sự nhỏ bé của mình và vẫn phải tìm cách đối phó với cuồng phong bão tố, chứ đâu phải buông tay nhìn số phận, chỉ xin đừng có những tuyên bố hợm mình đòi đứng trên cả thiên nhiên, không dám đâu nhé! Vì chỉ có quyền lực siêu nhiên mới có thể đứng trên đất trời mà thôi. Nhắc đến đây tôi lại nhớ tới hai câu nói của hai phi hành gia cho cùng một hành động, một là của người vô thần và một là của người có đức tin. Số là khi lần đầu tiên con người bay ra được ngoài không gian, Yuri Gagarin, một người vô thần huênh hoang tuyên bố: "Thiên Chúa đâu? Tôi đã ra khỏi bầu trời mà có thấy Thiên Chúa của các người đâu nào?", còn John Glenn, một người có tín ngưỡng thì ông ta lại nói: "Bay ra đến đây, tôi thấy khung cảnh đẹp tuyệt vời, tôi càng cảm thấy khâm phục sự kỳ diệu của Tạo Hóa đã ban cho con người". Chỉ cần nói thế là đủ và không cần phải bình luận dài dòng thêm làm gì nữa. Trong những ngày miền Bắc giá lạnh khác thường như thế này, tôi lại nhớ đến mùa xuân năm xưa, cách đây hơn hai mươi năm. Ngày ấy chúng tôi còn trẻ và rất nhiệt tình với phong trào ca hát. Lúc ấy tôi là trưởng nhóm ca nhạc xung kích mà, thường rất khó khăn để tìm ra được bài hát mới, ca nhạc xung kích mà hát đi hát lại mấy bài cũ thì ai mà nghe cho? Vì vậy nên thường xuyên theo dõi ca khúc mới trên radio, bài nào hay thì thu vào cassette rồi ký âm lại, tập dợt và đem đi hát, nhờ vậy mà cái vốn nhạc lý và ký âm của tôi dần dần vững chãi là do ở thời gian khó khăn trui rèn này. Năm ấy chọn được hai bài: Mùa xuân đến rồi đó của Trần Chung và Gởi nắng cho em của Phạm Tuyên. Tất nhiên là rất nhiều, nhưng hai bài này lại sâu sắc và thấm thía hơn cả, nhất là bài Gởi nắng cho em, mãi đến tận hôm nay tôi vẫn hát và thành thực thú nhận là chưa hề thấy cái nốt nhạc bài này in ở đâu bao giờ, nhưng chúng tôi vẫn không bao giờ quên được giai điệu và lời hát thiết tha trong thời điểm âm nhạc của chúng ta mới thoát ra khỏi dòng nhạc cứng nhắc để tiến dần đến dòng nhạc viết cho tâm hồn người: Anh ở trong này chưa thấy mùa đông. Nắng vẫn đỏ mận hồng đào cuối vụ. Trời Sài Gòn xanh cao như quyến rũ. Thật diệu kỳ là mùa đông phương Nam. Đúng vậy, thiên nhiên hình như chia không đồng đều giữa hai miền Nam Bắc, mùa đông miền Nam trời vẫn nắng gay gắt, chả bù cho miền Bắc rét đậm, trâu bò ngã lăn ra chết hàng loạt, bao gia đình lâm vào cảnh khốn đốn, chống chọi với giá rét và cả với cái đói. Muốn gởi ra em một ít nắng vàng, Thương cái rét người thợ cày thợ cấy. Nên cứ muốn chia nắng đều cho ngoài ấy, Có tình thương tha thiết ở trong này. Có muốn gởi thì cũng biết gởi làm sao đây? Giá như nắng mà chia được thì cũng cố mà chia ra ngoài ấy cho đều, để nồi cơm nhà nghèo vẫn còn được nóng, vẫn còn được đầy. Gởi nắng cho em Gởi nắng cho em Gởi nắng về Sưởi ấm những bàn tay... Vâng, may lắm thì cũng chỉ sưởi ấm được những đôi bàn tay thôi, miền Bắc giá rét ơi!

Thứ Hai, 4 tháng 2, 2008

Có một mùa xuân

Thực sự thì nên gọi có "những" mùa xuân mới đúng hơn, vì trong lúc gió xuân đang về, ngày xuân đang tới, tình xuân đang len nhẹ vào lòng người, hương xuân đang thoang thoảng đâu đây, men xuân đang thấm ướt môi người... thì quanh ta, có những mùa xuân khắc khoải đến nao lòng cũng nhè nhẹ tới theo mùa xuân của ta, đi bên cạnh ta với biết bao cảnh đời... nhưng tôi vẫn nói đến một mùa xuân, mỗi một mùa xuân của tôi, của bạn và của mọi người để thêm một chút riêng tư cho từng cái xuân đang đến.
Nhiều người vẫn thường bảo sao chú già ít nói đến những cảnh giàu sang vui thú mà chú hay nói đến những cảnh đời cơ cực như vậy? Đúng thế. Tôi thích nói đến những cảnh đời nhọc nhằn lao tác bởi vì khi nói đến thì tôi thấy mình ở trong đó, như cháu gái QV có lần bảo: tôi bước qua chính tôi... Tôi rất thích câu nói này. Nói về mình, về những khổ ải của mình, bước qua cuộc đời cay đắng của mình một cách không cần tô vẽ thì bao giờ cũng thích, cho dù cái sự thích ấy chẳng giống ai, và có thể những cái mình thích là những cái người ta ghét, nhưng đó là mình, và đó cũng chính là blog vậy.
Tôi vẫn nhớ đến những cái xuân ngày cha tôi còn sống, không như vậy đâu các bạn à. Ngày xưa mỗi lần xuân đến, tất nhiên thì cũng phải sắm sửa chút gì cho gia đình. Tôi nói đây là nói đến sự chia sẻ chung chung cho mỗi gia đình Việt Nam mình hồi ấy, không có bánh ngon đâu! không có thức ăn ngon đâu, nhưng xuân đến thì vẫn phải đón xuân với bao niềm trìu mến yêu thương, để con cháu thắm được chút hương nào đó cũng đã là mãn nguyện rồi. Ngày nay chúng ta đón xuân với bao điều nô nức hồ hởi, các con đưa tiền cho mẹ bảo rằng: Mẹ ơi, công việc con đang rất bận, cận tết con mới về được, mẹ cầm mấy triệu này về sắm sửa cho vui cửa vui nhà đi mẹ, rồi chúng con sẽ kịp mà, mẹ đừng buồn nhé! Vâng, mẹ không buồn đâu, ba cũng không buồn đâu, nhưng thấy đau khi nghĩ về ngày xưa là vậy. Tại sao chúng ta lại có tục lệ gói bánh chưng, bánh tét trong những ngày xuân, biết bao nhiêu người cho rằng đó là tục lệ bánh chưng bánh dày hồi xưa, nhưng họ quên mất rằng không phải thế. Ngày xưa mỗi lần tết đến, gia đình thường hay gói bánh chưng bánh tét vì các thứ bánh ấy có thể để lâu mà không hư, để dài ngày mà vẫn ăn được, đó cũng là một hình thức tiết kiệm đấy, con cái đi đâu ăn gì không biết, nhưng lúc về nhà xẻ một miếng bánh chưng, một miếng bánh tét là cũng đủ no lòng. Mấy ai còn nghĩ đến chuyện này, cứ tưởng là văn hóa này nọ, xin thưa là không đâu, cái nghèo của dân tộc mình đã dạy ta như thế, có che giấu mấy thì ta cũng vẫn còn nghèo, phải biết hà tiện là vậy, và đó cũng là nét đẹp của ngày xuân là thế.
Xưa nhà thơ Phùng Quán có lần viết:
Mới tháng ba đã ngóng trông đến Tết,
Để được ăn cơm no có thịt,
một bữa một ngày...

là thế đó.
Trẻ nhỏ như chúng tôi chỉ mong đến Tết, để được khoanh tay chúc mừng tuổi cha mẹ và để nhận lấy đôi đồng bạc lì xì, quý lắm, không dám tiêu đâu, chỉ muốn chạy ra ngoài chợ đặt vào hàng bầu cua xem mình có hên không? thua hết cái đồng kẻng năm mươi xu là đã thấy đứt ruột, không dám chơi nữa, bảo rằng năm nay mình vận hạn, dành đôi ba đồng mà mua thêm cây bút chì hai màu đỏ xanh về vẽ là vậy. Thương ôi là thương, nhớ ôi là nhớ là thế! Nói đến lại muốn khóc!
Bảo rằng xuân nay chẳng có ý nghĩa gì nghĩ cũng đúng, vì hầu như tôi chẳng còn cái cảm giác xuân, chỉ biết mình làm, mình chuẩn bị mọi thứ để đón khách, chứ nó không còn có được niềm hào hứng như ngày xưa mình còn trẻ là vậy. Ngày xưa ơi, ngày xưa! May mà ta còn được hưởng những thứ ngày xưa giản dị ấy.
Tết đến, cái hình ảnh đáng nhớ nhất trong tôi hiện giờ là anh chị em xe rác. Thương quá các anh các chị ơi! Đến cận Tết rồi mà các anh các chị cũng phải làm cho đời thêm xanh, cho cuộc sống thêm đẹp. Thường thì mọi năm tể tướng nhà tôi vẫn hay sắm những phần quà đóng gói sẵn chờ họ đến lấy rác là mang ra tặng, lắm người ngỡ ngàng e dè không dám nhận làm chúng tôi hơi buồn, nhưng sau họ biết họ nhận với tấm chân tình rất vui. Tôi nói vậy chẳng phải để khoe đâu. Nhà anh, nhà chị, nhà bạn, nhà cháu... đến ba mươi tết rồi mà vẫn còn người đến nhận rác thì tiếc chi nhỉ? Mau chạy vô nhà lấy một bịch mứt, một bịch bột ngọt, một kí đường mang ra tặng cho họ đi! Đối với chúng ta thì những thứ đó đâu có gì đáng kể, nhưng với họ thì quý lắm đấy. Quý bởi cái "tình người" chứ không phải quý bởi tặng vật đâu. Hãy làm thế nhé, để ta thấy xuân này rất vui và có nhiều ý nghĩa.
Nói đến xuân, nói đến Tết, chắc hẳn không bao giờ dứt được, vì cái lòng người sinh ra trên đời tạo hóa ban cho mình hai tiếng chia sẻ, thì hãy chia sẻ đi. Khi sẻ chia thì ta sẽ nhận ra được chính mình, sẽ nhận ra được mùa xuân của chính mình ngay chính những người cùng khổ chứ chẳng đợi gì xa xôi, rất gần và rất thương, rất giản dị và rất xuân.
Và đó chính là mùa xuân mà ta mãi đợi chờ đấy...

Thứ Năm, 24 tháng 1, 2008

Quyền và Tình

Trước hết, xin khẳng định với mọi người "Quyền" đây chẳng phải là quyền lực đâu nhé! "Tình" cũng thế, chẳng phải là ái tình hay yêu iếc gì cả đâu nghen.
Hình như mỗi con người sinh ra trên đời này có 2 cái quyền bất di bất dịch mà không một ai trên cõi đời này có thể ngăn cản chúng ta thực thi 2 cái quyền ấy: đó là quyền ký tên mình theo ý thích và thứ hai là quyền đặt tên con của mình. Hihi... Phải vậy không nhỉ?
Tất nhiên là chúng ta còn có rất nhiều quyền khác, nhưng những cái quyền ấy không bị ảnh hưởng cái này thì cũng bị cái khác chi phối. Ông cán bộ bảo rằng thằng cha Papi này nói dóc, thiếu gì quyền được ghi trong hiến pháp, gọi là quyền hiến định mà lão dám bảo là chỉ có 2 quyền thôi? Xin thưa những cái quyền ấy chỉ nằm trên giấy tờ và hình thức để lòe thiên hạ chứ dễ gì thi hành được quyền đó trong thực tế, chẳng hạn như cái quyền tối thượng ghi trong hiến pháp là quyền được học hành. Nghe oai ghê nhưng thử ra xã hội mà thực thi cái quyền ấy đi. Nghèo thì lấy đâu ra tiền mà học? Đậu đại học mà đành phải bỏ kìa, thế thì đó chẳng phải gọi là quyền nữa, nếu gọi đó là quyền được học hành thì tất cả các trường học đều phải miễn phí để ai cũng có thể đi học được. Papi chỉ đơn cử một thí dụ nhỏ như vậy cho vui thôi chứ tớ hổng ham làm chính trị đâu! Còn vô số cái quyền hiến định khác khỏi kể lể ra đây thêm dài dòng và choán đất của Yahoo thêm mệt. Có người còn bảo nào là quyền được yêu, quyền được nói, quyền được đi lại, quyền được làm việc vân vân và vân vân, nhưng thử xét lại đi, cái quyền nào cũng bị những thứ khác chi phối. Thử hỏi Quyền được yêu hả? Người ta không yêu lại thì mần cái gì người ta? Yêu đơn phương thì có đáng được gọi là yêu không? Quyền được nói hả? cái này thì khỏi phải bàn, thử nói cho thỏa đi là biết liền, họa chăng chỉ thích lảm nhảm một mình như người điên lang thang thì được (Xin lỗi blogger Người điên lang thang nhé, tôi không cố ý nói Ngài đâu!). Quyền được đi lại hả? Thử đi vô Phủ Tổng thống hay đi sang Mỹ coi, ai mà cho? Quyền được làm việc hả? Có đâu mà làm, tự ên anh phải căng mắt căng cái lưỡi ra cho dẻo để mà tìm chứ quyền gì? Nói cho vui thế để ta nhận thấy chỉ hai cái nêu trên mới đúng là quyền thực sự mà anh có.
- Thứ nhất là quyền ký tên mình. Đúng vậy, bạn có thể thích ký làm sao thì ký mà không ai có thể bắt bạn phải ký như thế này ký như thế khác được, ngay cả cha mẹ cũng không thể bắt ép bạn phải làm điều ấy, mà bạn có quyền ký tên theo ý thích của mình. Tổng thống hay công an cũng không thể ngăn cấm bạn được. Bạn có thể ký tên mình theo hình con cọp, con heo, con chó, con gà, chữ Tây, chữ Tàu, chữ Hàn quốc, chứ Ả rập, chữ méo mó, vuông vức, ô tròn, chữ thập ngoặc hay bá xí nạp gì thì cũng không ai làm gì được bạn. Đó mới chính là quyền chứ! Hihi...
- Thứ hai là quyền đặt tên con. Cái quyền đây tôi dành chung cho cả hai vợ chồng chứ không phải ý chồng ý vợ. Vợ chồng bạn có quyền đặt tên con mình theo ý thích. Ngày xưa tôi đã gặp những bạn học có cái tên nghe không hay nên tức quá bảo rằng, mai mốt tao lấy chồng sinh con ra tao sẽ đặt tên thế này thế nọ cho thỏa tức. Vâng, đó đúng là quyền của vợ chồng mà cha mẹ cũng không thể ngăn cấm hoặc bắt con cái phải làm theo ý mình. Tất nhiên là bạn có thể đặt tên Nguyễn Thị Mẹt hay Nguyễn Thị Nở hoặc bốc đồng như cái ông ở Phan Rang cách đây lâu rồi đặt tên con là Trần Văn Con Không Đủ Tiền Đóng Thuế Nông Nghiệp vì ông không đủ tiền đóng thuế, khi làm khai sanh người ta làm khó dễ nên tức khí đặt tên con như vậy, và cái anh chàng tên Nghiệp với họ và chữ lót dài dặng dặc ấy vẫn hiện diện trên cõi đời này mà không ai làm gì được. Quyền mà! nhưng nghe đâu cách đây mấy năm anh ta đã xin đổi lại là Trần Văn Nghiệp cho dễ nghe một tí, chứ biết đâu sau này làm Tổng Thống thì với cái tên dài dằng dặc kia e rằng không tiện lắm (Hihi...). Có anh bạn lại dự định sau này đặt tên con mình theo số cho nó gọn, số đây là chữ số thực thụ chứ không phải âm tiết Một, Hai, Ba đâu. Tôi bật cười bảo rằng thôi ông đừng có điên, đem đi chứng khai sinh với những cái tên Nguyễn Hùng 1 hay Nguyễn Thị 15 thì coi bộ khó nuốt quá ông ơi! Nói cho vui vậy để biết được rằng, tên con ta thì ta có quyền đặt, chẳng ai làm gì được ta cả.
Nhưng...
Trong cái quyền thứ hai này vẫn còn có một điều kiện, đó là cái chữ Tình chữ Nghĩa trong gia đình. Quyền của vợ chồng mình nhưng mình cũng nên xét đến tên dòng tộc máu mủ nữa. Gia lễ xưa nay của người Việt chúng ta khuyên không nên đặt tên con là tên của họ hàng huyết thống, vì dù sao cũng phải tôn trong ông bà Chú bác Cậu dì một tí, chứ lỡ sau này tức tối lôi con ra chưởi thì nghe lôi tên ông nội ra mà hành mà bêu là vậy. Người phương Tây thì hoàn toàn ngược lại, họ thường đặt tên con mình theo tên người họ yêu thương nhất như ông nội ông ngoại để mà nhớ để mà thương, nhưng dân Việt mình thiết nghĩ cũng khá lâu theo quan niệm này rồi, cũng xin đừng cho đó là cổ hủ, là bảo thủ, mà chỉ xin hãy nghĩ đó là tấm lòng tôn kính, và đó chính là cái chữ Tình tôi muốn nhắc đến trong cái entry này vậy.
Một điều nữa là ông bà ngày xưa có thói quen hay giành đặt tên cho cháu đích tôn hoặc bất cứ đứa cháu nội nào của mình cũng muốn tự mình đặt mà thôi. Điều này thực sự chưa đúng vì nó rõ ràng tước mất cái quyền thứ hai mà tôi muốn nói. Tuy nhiên rất nhiều người vì thương Ông, thương Cha, vẫn muốn Cha muốn Ông đặt tên cho con mình để tỏ lòng tôn kính yêu thương và cũng muốn dành lấy cho Cha ông mình một món quà tinh thần nho nhỏ nhưng đầy ý nghĩa. Việc này rất tốt nhưng không bắt buộc lắm là vậy. Một số người dung hòa bằng cách tự đặt tên con rồi quay sang hỏi Ông ơi, Cha ơi, con đặt như thế được chưa? Nghe mà ấm cả cõi lòng, dung hòa như thế thì quá tuyệt vời đi rồi, vừa có cái quyền, vừa có cái tình là thế đó.
Những điều tôi nói ở trên có phải thế không nhỉ? Nếu chưa phải đi nữa thì xét thấy trong đời có hai cái quyền này là đủ rồi, còn những thứ khác như công việc, danh vọng, chức tước giàu sang phú quý đi nữa thì muốn có, bạn phải trả giá bằng một cái giá nào đó thôi, chứ hai cái quyền này thì bất cứ kẻ giàu sang hay bần cùng nào cũng đều được hưởng cả. Quyền mà!

hình minh họa trên của Họa sĩ Văn Minh (?)

Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2008

Sự nghiệt ngã trên blog!

Hầu hết những người viết trên blog đều cho rằng, đây là một sân chơi trên net, một diễn đàn trên mạng, hoặc cũng có thể như chúng ta thường gọi: một xóm blog nhỏ trên net. Những tưởng rằng nơi đây chúng ta đều vui chơi bình đẳng, tám thoải mái, vân vân và vân vân... Cái vui cái buồn cái lợi cái hại của blog thì chúng ta đã nói rất nhiều rồi, nhưng hôm nay tôi muốn nói đến cái sự nghiệt ngã trên sân chơi blog này.
Có không nhỉ?
Tôi thấy có đấy. Thứ nhất, không phải ai cũng thật tình tất tần tật với ta đâu. Anh A, chị B, chú C, cô D... có thể hiện hữu trên một khía cạnh nào đó như ta đã từng xem qua một vài tấm ảnh chân dung của họ, ta cũng có thể đoán ra họ nhiều thứ như sắc nét, công việc, mối quan hệ chẳng hạn, nhưng cũng có thể đó chỉ là những tấm ảnh của... người khác chứ không phải của chủ nhân blog ấy, thế thì ta phải biết tin ai đây để tránh phải nhận điều nghiệt ngã lỡ như sự thật không như ta mong muốn? Cũng có thể một nhân vật Z nào đó thậm chí chẳng biết bao nhiêu tuổi, vóc dáng thế nào, công việc ra sao, mặt mũi méo hay tròn vì chưa hề có một tấm ảnh nào, nhưng ta vẫn đặt niềm tin vào kẻ ấy qua cách hành văn, qua ý tứ lời viết, từ đó ta vẫn suy ra được tính cách blogger đó. Đó là niềm tin vào những gì ta đọc được chứ không phải niềm tin vào một con người. Vì biết đâu cái cô Z nhí nhảnh dễ thương này thực ra là một ông già 70 hay là một thằng nhóc nào đó không chừng? Cũng có thể lắm chứ! Lúc đó nghiệt ngã hay không thì biết liền hà!
Bảo rằng không nghiệt ngã ư? Chưa chắc đâu nhé! Hôm nay tôi biết anh A chị B này xinh xắn điển trai, đang làm một công việc ổn định tại Cty này cty kia, công việc có vẻ thoải mái vì tôi biết đương sự dư thời gian để viết blog, bạn bè lại nhiều và lối viết của đương sự rất văn hoa chỉn chu, đó là thấy vậy, nên người xem vào thăm đông lắm, comment cũng nhiều và vui lắm, nhưng nếu mấy ngày nay đương sự bỗng than rằng mình bị mất việc và đang đi lang thang để tìm việc thì bỗng nhiên cái blog ấy vắng khách ngay, không còn nhộn nhịp như trước nữa, sự đời là như thế đấy, nghiệt ngã là như thế đấy. Blog cũng có cân đo đong đếm chứ có khác chi bên ngoài cuộc đời đâu?
Mặt trái và mặt phải của blogger vốn rất gần nhau, nhưng chúng khó xếp chồng lên nhau làm một là vậy, không phải ai cũng mở toang cánh cửa lòng mình cho mọi người vào đâu, vui đó rồi cũng buồn đó chứ chẳng phải ai cũng như ta đâu. Nói thế không phải để chúng ta xếp lòng lại nhìn mọi người bằng một ánh mắt nghi kỵ, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ hiểu rằng, thật giả trên mỗi blogger có những tỷ lệ khác nhau, và chúng ta tin vào một số phần trăm nào đó là đủ, trong số phần trăm ấy có tốt có xấu cũng như sự đời vậy thôi, có nghiệt ngã mới là cuộc đời, chứ bình lặng quá thì cũng nhàm chán thôi là vậy.

Hương thời gian

Hết nói đến Tiếng thời gian, nay tôi lại nói đến cái Hương thời gian đây. Ối dào! tiếng hay hương gì thì cũng do chính chúng ta hình tượng hóa một cách văn hoa thôi chứ làm gì định nghĩa ra cho đúng được? Thời gian làm gì có hương? Chỉ là cảm nhận vui buồn ở đời rồi tưởng tượng ra đấy thôi chứ ai bảo hương thời gian có mùi gì? Chịu thôi! Vậy mà ai cũng dùng cả đấy nhé!
Vì sao vậy nhỉ? Vì thời gian trôi qua mà không đợi ai giục giã, thời gian trôi thì cuộc đời ta cũng trôi theo, có thể trong quãng thời gian ấy ta yêu đương thắm thiết hay thất vọng tràn trề, đớn đau khô khốc nữa, những cảm nhận đó làm ta vui, làm ta đau, làm ta chua xót. Rõ ràng nếu làm ta vui thì ta sẽ cảm thấy cái hương tình yêu của cuộc đời len nhẹ vào tim, nó xốn xang, nó dấu ái và nó rất đáng yêu, cái hương ấy ta thấy thơm tho chi lạ, muốn ủ ấp cho kỹ kẻo sợ nó bay mất. Nhưng nếu cái cảm nhận ấy làm cho ta đau, làm cho ta chua xót thì tự nhiên ta thấy môi mình khô khốc lạ, tựa như nếm phải trái đắng và cái mùi hương cuộc đời quanh ta không còn thơm tho dịu ngọt nữa mà nó chan chát, cay cay, nó xộc thẳng vào mũi ta làm ta vừa khó chịu và vừa đau đớn.
Thế cũng là hương rồi, cái hương ấy dù thanh thoát hay khó ngửi gì đi nữa thì cũng là hương của cuộc đời mà mỗi con người thế nào cũng phải có lần nếm. Mà cũng phải công nhận à nghen, nếm có mỗi mùi thơm hoài thì cũng ngán, phải có những mùi khó ngửi khác nữa thì cái làn hương kia nó mới trở nên quý giá khi ta cảm nhận lấy. Cảm nhận được mùi hương cuộc đời cũng chính là cảm nhận được hương thời gian rồi...

Thứ Hai, 14 tháng 1, 2008

Hoa xuân và Phạm Duy

Nét đặc trưng và sự diệu kỳ của mùa xuân chính là hoa. Thật vậy, mỗi khi xuân về thì hoa lại khoe sắc muôn màu muôn vẻ, hoa mang hương sắc cho đời, nhưng hoa cũng còn mang hương cho lòng người nữa. Lắm khi nâng niu một bông hoa đẹp, ta thấy hồn mình lắng xuống là vậy, và nếu đó là một đóa hoa xuân, thì sự quý giá được cảm nhận hơn lên nhiều lần.
Biết bao nhiêu năm rồi, nghe lại bài hát Hoa Xuân của Phạm Duy mãi vẫn không thấy chán, cho dù cái bài hát này ra đời lúc tôi chưa sinh ra, chưa có mặt trên dương thế này mà cảm nghiệm (1953). Nay đầu đã bạc, răng đã long, chỉ còn đôi ba cái rung rinh rủng rỉnh, thế mà nghe lại vẫn thích, điều ấy chứng tỏ sức sống mãnh liệt của bài hát trải qua năm tháng cũng như sự trường tồn của một ý nhạc đẹp như lời thơ. Cái nét nhạc dịu dàng như mùa xuân đang len qua kẻ lá mà về với nhân gian, về với lòng người nghe nó êm ái như tiếng ru vậy, mặc dù ông chỉ dùng những nốt nhạc rất đơn sơ, vô cùng đơn sơ, không cần cầu kỳ như Cung Tiến hay Phạm Đình Chương, thật dễ hát dễ nghe nhưng lại thật hay và vô cùng có hồn. Ai đã từng sáng tác thì chỉ cần cảm nghiệm mấy nốt nhạc trong dòng đầu này thôi thì cũng đủ tôn ông là bậc thầy rất phải phép. Thật vậy, có cao xa gì đâu? Chỉ bốn nốt nhạc dệt vào nhau tạo nên câu hát rất tuyệt vời: Mi đồ mi sol la, sol đố...

Xuân vừa về trên bãi cỏ non
Gió xuân đưa lá vàng xuôi nguồn...


Đúng là chỉ cần 4 nốt nhạc Đô, mi, sol, la thôi là đã thấy xuân vừa mới về đây ngay lòng ta ạ! Những chiếc lá vàng rơi rụng xuôi theo nguồn mà đi, để cho mầm xanh chợt nhú lên mang sức sống mới cho đời, như muốn cho những con người trẻ vươn mình đứng dậy.
Nhưng cũng chẳng hiểu vì sao mà một bài hát về hoa xuân, mới câu thứ nhì thôi mà Phạm Duy đã đưa hình tượng chiếc lá vàng rơi rụng vào đây? Lạ thật, song để ý kỹ thì chúng ta sẽ thấy tác giả không cho chiếc lá vàng rụng rơi tơi tả mà lại cho chiếc lá xuôi theo làn gió xuân mà quay về nguồn cội. Cái tuyệt vời của Phạm Duy là ở chỗ đó. Mà quả là đúng như vậy, vì ngay sau đó, ông đã đưa những hình tượng rực rỡ của mùa xuân tuôn trào lên ý nhạc:

Hoa cười cùng tia nắng vàng son
Lũ ong lên đường cánh tung ròn...


Hoa cười trong nắng sớm, đón lấy lũ ong đang chập chờn bay đến hòa quyện với nhau trong bức tranh thiên nhiên sinh động của mùa xuân. Cái chữ ròn ở đây tôi thấy thật là lạ. Theo thiển nghĩ riêng tôi, có vẻ như đây là chữ "rờn" mới phải? hoặc là chữ "giòn" vậy? Hình như ông cố tình gieo chữ ròn cho đúng vần, nghe là lạ như rập rờn, giòn giã vậy. Cái chữ ròn ở đây được dệt nhạc thành hạ át âm nghe bâng khuâng náo nức để chuẩn bị quay về chủ âm của khổ nhạc sau...

Hoa chẳng yêu lũ bướm lả lơi
Muốn yêu anh vác cầy trên đồi
Hay là yêu chiến sĩ nghìn nơi
Thấy hoa tươi cười bỗng thương đời.


Hoa cười cùng tia nắng xuân, nhưng hoa lại chẳng yêu lũ bướm lả lơi ve vãn, vì hoa xuân đối với ông như phần thưởng của thiên nhiên cho dân tộc, cho con người Việt Nam đáng yêu, dù cho là anh dân cày nơi đồng xa hay anh chiến sĩ đang cầm súng đứng gác ở biên cương, hoa muốn được cười để mang niềm vui đến cho mọi người trong ngày xuân tươi mới, chứ không phải hoa khoe sắc lả lơi tình tứ ỏng ẹo với những kẻ đào hoa như lũ bướm dập dìu kia. Cái tình chung ông muốn gởi đến cho nhân thế là vậy.
Thường thì mỗi bài hát cứ đến điệp khúc thì dòng nhạc bỗng dậy lên thôi thúc, nhưng lạ thay cái bài viết về hoa xuân này, nó vẫn nhẹ nhàng dìu dặt mà không cần phải lên cao trào làm gì, vì thiết tưởng ai nghe qua những ý lời trong bài cũng thấy hoa xuân nhẹ theo làn gió e ấp vào lòng người, để nói lên cái ý tứ của hoa không chỉ để khoe sắc thôi, mà còn biết xây đắp cho đời, để nhân thế mãi vui vẻ sum vầy bên nhau nữa.

Xuân ! Hoa còn tươi mãi
Hoa vì nhân thế biết sum vầy cuộc vui.
Xuân ! Hoa nở vì ai
Tay nhịp bàn tay cùng đắp xây ngày mai.


Phiên khúc cuối của bài hát, Phạm Duy muốn đưa hoa xuân vào những hình tượng cụ thể chứ không nói chung chung là người người, là nhà nhà, là nhân thế nữa. Là nhạc sĩ, nhưng những hình tượng mà ông dệt nhạc đẹp như một bức tranh của một người họa sĩ hơn là một nhà soạn nhạc. Nét phác thảo đơn sơ của ông về hoa xuân dành cho người họa sĩ đồng quê ngắt bông hoa tặng cô gái xuân, cạnh đấy là mấy đứa mục đồng ôm sách lẩm nhẩm đánh vần, những chữ i tờ mà chúng đọc được cũng như những cánh hoa đẹp để làm món quà đón xuân sang, đó cũng là hoa, là hoa lòng, là hoa tâm hồn của trẻ thơ khi biết đánh vần được chữ i chữ tờ.

Có một chàng thi sĩ miền quê
Ngắt bông hoa biếu người xuân thì
Có một đàn em bé ngoài đê
Hát câu i, tờ đón xuân về.


Quả thật, chỉ là những đóa hoa xuân bình thường, vì ở đây ông không đề cập đến hoa mai, hoa đào hay là một loài hoa nào khác, thế mà khi hát lên, ta vẫn thấy hương hoa bay man mác khắp nơi trong ngày xuân, nhẹ nhàng, dìu dặt, ru êm và sâu lắng.
Qua phần thứ nhì của bài hát, ông lại đưa hình tượng hoa xuân ra như là phép lạ để đưa người với người được gần nhau hơn, cùng quyến luyến với nhau hơn. Những lời nhạc đẹp và tượng hình đến nỗi nghe qua ta không còn dám có thêm lời nào để bình phẩm nữa, vì chính lời hát đã nói lên tất cả những gì muốn nói, phải là một bậc thầy trong âm nhạc thì mới có thể làm được những lời diệu kỳ như thế.

Những đoàn người trên luống cầy nâu
Thấy hoa xuân phép lạ ra mầu
Bỗng nhủ lòng ra sức cầy sâu
Tiếng ca như thể tiếng kinh cầu.

Hoa bèn yêu bóng dáng cần lao
Bắt tay nhau tránh cuộc cơ cầu
Người cùng mùa đã thoát vực sâu
Sức hoa reo nở lúc Xuân đầu.

Xuân ! Hoa toả hương mới
Nhân quần ân ái đã kêu đòi niềm vui
Xuân ! Hoa là tình tôi
Ðua nở cùng ai, cùng luyến yêu mọi nơi.

Có một bầy thôn nữ nhìn hoa
Chúc cho Xuân vui vẻ thái hoà
Có một vài tóc trắng thầm mơ
Ước cho hoa nở mãi không già.


Vâng, mãi đến đoạn kết thì ông mới nhớ đến tiếng thời gian, nhưng ông lại quyện trẻ già lại với nhau chung vào một khổ nhạc, để thầm mơ cho hoa lâu tàn như đời người. Niềm ước mơ ấy cũng bình dị và giản đơn như giai điệu bài hát vậy.
Ước cho hoa nở mãi không già...
Ước cho lòng mỗi người chúng ta cũng thế nhé!